Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - Pdf 48

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG XUÂN HIẾU

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MẤT TÍCH,
TUYÊN BỐ CHẾT ĐỐI VỚI MỘT CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

MÃ SỐ

: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Thu Hà

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, Ngày tháng năm 2015
Tác giả

Hoàng Xuân Hiếu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

PLTTGQVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

TTDS


HOẶC ĐÃ CHẾT. .............................................................................................. - 31 2.2.1. Chuẩn bị phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích. ...... - 33 2.2.2. Chuẩn bị phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người đã chết......... - 36 2.3. PHIÊN HỌP XÉT ĐƠN YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH
HOẶC ĐÃ CHẾT. .............................................................................................. - 37 2.3.1. Những người tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc đã chết............................................................................................... - 37 2.3.2. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc đã chết........................................................................................ - 39 2.3.3. Quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ......................... - 41 2.3.3.1. Quyết định tuyên bố một người mất tích. ....................................... - 41 2.3.3.2. Quyết định tuyên bố một người là đã chết. .................................... - 41 2.4. THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ
MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT................................................ - 42 2.4.1. Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.- 42 2.4.2. Xét đơn yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết. .................................................................................................................. - 43 2.5. GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC
ĐÃ CHẾT, YÊU CẦU HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI
MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM. .............. - 45 2.5.1. Quyền kháng cáo, kháng nghị và thời hạn kháng cáo, kháng nghị quyết định
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết
định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. .............................................. - 45 2.5.2. Thủ tục phúc thẩm giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. .. - 46 CHƯƠNG III: .......................................................................................................... - 48 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT
TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..................................................... - 48 3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH
HOẶC ĐÃ CHẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH. ........ - 48 3.1.1.Tình hình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh. ................................................................. - 48 -


3.1.2. Những khó khăn khi áp dụng quy định của BLTTDS Việt Nam trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại Tòa án nhân
dân huyện Đông Anh. ...................................................................................... - 49 3.1.2.1. Khó khăn trong việc xác định đương sự trong quá trình giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........................................... - 49 3.1.2.2. Khó khăn khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........................................... - 50 3.1.2.3. Khó khăn trong việc xác định ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố
đã chết. ......................................................................................................... - 51 3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC
ĐÃ CHẾT. ........................................................................................................... - 53 3.2.1. Quy định chung về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. ........ - 53 3.2.1.1.Về đương sự trong việc dân sự. ....................................................... - 53 3.2.1.2 Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
việc dân sự. .................................................................................................. - 54 3.2.2. Quy định về thủ tục tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. ........... - 56 3.2.2.1. Về thủ tục thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc
tuyên bố là đã chết. ...................................................................................... - 56 3.2.2.2. Về việc thông báo tìm kiếm hợp lệ đối với người bị yêu cầu tuyên bố
mất tích hoặc đã chết. .................................................................................. - 57 3.2.2.3. Về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. ....... - 58 3.2.2.4. Về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết

bước đột phá về mặt tố tụng và tư duy của nhà làm luật Nó thể hiện trươc tiên từ
cách nhìn nhận hoàn toàn khoa học dựa trên tính chất đặc trưng của vụ án dân sự và
việc dân sự. Với việc quy định tách riêng thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung
và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích nói riêng mở ra một hành
lang pháp lý trong việc giải quyết nhanh, gọn, giản lược và triệt để những việc dân
sự có đặc trưng là không có tranh chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu
Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ dân sự…
Trong 9 năm kể từ khi BLTTDS có hiệu lực pháp luật, việc áp dụng thủ tục
giải quyết việc dân sự để giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã


-2chết đã khắc phục được những vướng mắc so với những quy định trước đây, ví dụ
như: Theo những quy định trước khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, đối với vụ án
yêu cầu chia thừa kế của người biệt tích, nếu đủ điều kiện Tòa án giải quyết tuyên
bố người biệt tích là đã chết, rồi sau đó giải quyết luôn vấn đề chia thừa kế đối với
di sản thừa kế của người đó trong cùng một vụ án. Đều này sẽ dẫn đến một vấn đề
đó là quyết định tuyên bố một người là đã chết chưa phát sinh hiệu lực, chưa được
xem xét tính đúng đắn mà đã được sử dụng làm cơ sở để giải quyết yêu cầu chia
thừa kế. Kể từ khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, đối với những trường hợp như
trên, đương sự phải tiến hành thông qua thủ tục giải quyết việc dân sự tuyên bố một
người là đã chết, sau khi quyết định tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp
luật thì mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu phân chia di sản thừa kế của
người bị tuyên bố đã chết.
Bên cạnh ưu điểm trên, qua quá trình áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
nói chung và thủ tục giải quyết tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng
đã đặt ra nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ đòi hỏi BLTTDS cần có quy định cụ
thể và thống nhất hơn. Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất tích hoặc đã chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương
XXIV của BLTTDS tuy nhiên những quy định này mới chỉ mang tính khái quát

người là đã chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự 2005”, Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí
TAND số 11/2009…Khác với các công trình nghiên cứu trên, đề tài “Thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện
Đông Anh” được triển khai ở cấp độ luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu vấn đề thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết một cách đầy đủ, toàn
diện kết hợp với những nhìn nhận từ thực tiễn để làm rõ hơn quy định của
BLTTDS, đi sâu phân tích tìm ra những những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải
khi áp dụng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết. Vì
vậy, vấn đề nghiên cứu này không hề có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu
khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung
và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng
trong TTDS. Tìm hiểu thực tế áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết của Tòa án.
Hai là, chỉ ra những điểm còn chưa hợp lý, chưa rõ ràng, chưa thống nhất
trong các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc
đã chết của pháp luật TTDS Việt Nam. Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy
định trong pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc đã chết.


-43.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự
nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết
nói riêng.
- Nghiên cứu, tìm hiểu quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong TTDS Việt Nam.

-5biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê, thăm dò ý kiến trong phạm
vi cơ quan, người làm công tác thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong TTDS Việt Nam và những vướng
mắc khi áp dụng thủ tục này để giải quyết trên thực tế. Do đó Luận văn này có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sau đây:
- Thứ nhất, Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về lý
luận và thực tiễn về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết.
- Thứ hai, Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công
tác xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng. Từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
6. Kết cấu Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh lục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm 3 Chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu một
người mất tích hoặc đã chết.
Chƣơng II: Quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.
Chƣơng III: Thực tiễn thực hiện các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết tại
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


-6CHƢƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC TUYÊN BỐ MẤT TÍCH,



-7tính chất đặc trưng đó là có sự tranh chấp, đối kháng quyền và lợi ích giữa các bên
nguyên đơn, bị đơn với nhau, Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự phải xem xét, đánh
giá các chứng cứ mà các đương sự đưa ra, hoặc do chính Tòa án thu thập để có thể
đưa ra bản án giải quyết tranh chấp đó. Do đó việc dân sự thường được giải quyết
nhanh và đơn giản hơn vụ án dân sự. Nếu pháp luật vẫn quy định chung một thủ tục
duy nhất để giải quyết cả vụ án dân sự và việc dân sự sẽ là không xác đáng khi “tiến
hành giải quyết một bài toán đơn giản (việc dân sự) và một bài toàn phức tạp (vụ
án dân sự) theo cùng một trình tự, cách thức”. Việc phân định rõ ràng giữa thủ tục
giải quyết việc dân sự và thủ tục giải quyết vụ án dân sự sẽ đảm bảo việc giải quyết
vụ án dân sự hoặc việc dân sự được thực hiện một cách chuyên môn hóa, giảm thời
gian tố tụng khi giải quyết những việc dân sự có tính chất đơn giản. Hơn nữa
BLTTDS quy định tách biệt giữa thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải
quyết việc dân sự đã khắc phục được những vướng mắc so với quy định trước đây
khi xem xét giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự theo một thủ tục chung.
Các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định
cụ thể tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS từ đó làm căn cứ xác
định thẩm quyền theo thủ tục việc dân sự. Những yêu cầu dân sự trên được xếp vào
loại việc dân sự và được giải quyết theo thủ tục việc dân sự bởi những yêu cầu này
đều mang tính chất đặc trưng của việc dân sự đó là không có tranh chấp mà chỉ là
yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
những người liên quan. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là một
loại việc thuộc yêu cầu về dân sự bởi đây là việc đương sự yêu cầu Tòa án công
nhận sự kiện mất tích hoặc chết của một cá nhân, Tòa án xem xét dựa trên những
chứng cứ của người yêu cầu xuất trình để đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu của đương sự về việc công nhận sự kiện chết hoặc mất tích của
một cá nhân mà hoàn toàn không có tranh chấp.
Khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS tương đối giống trong quy định
của BLTTDS nước Cộng hòa Pháp. Theo đó, Điều 25 BLTTDS của các nước Cộng

những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Các đương sự trong việc dân sự không có tranh chấp với nhau về
quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt lớn nhất
giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Trong vụ án dân sự luôn có sự tranh chấp về
quyền và lợi ích từ đó hình thành nên hai bên đối kháng nhau về quyền và lợi ích đó
là nguyên đơn và bị đơn. Trong khi đó, đối với việc dân sự, các đương sự không có


-9sự đối kháng, tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích. Sự không đối kháng trong
việc dân sự có thể do:
- Các đương sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp do các
đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như
những quyền và lợi ích giữa các đương sự và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự
thỏa thuận đó [18,tr8]. Tuy nhiên, việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự giữa các đương sự chỉ mang tính tương đối.
- Bản chất của việc dân sự là hướng tới xác nhận một sự kiện pháp lý mà từ
sự kiện đó phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
Thứ hai, không có nguyên đơn và bị đơn trong việc dân sự. Việc dân sự
không giống như vụ án dân sự khi mà các đương sự trong vụ án dân sự có tranh
chấp, đối kháng với nhau về quyền và lợi ích để hình thành bên nguyên đơn và bên
bị đơn. Điều đó xuất phát từ bản chất của việc giải quyết việc dân sự là việc Tòa án
công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý được xác định là căn cứ làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Do vậy, trong việc dân sự không hề có bất cứ tranh chấp nào về quyền và
lợi ích của các đương sự từ đó không hình thành bên nguyên đơn và bên bị đơn.
Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự, Tòa án sẽ tiến hành xem xét từ đó công
nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý mà từ sự kiện đó làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự của đương sự và những người có liên quan đến sự kiện
đó; từ yêu cầu của đương sự Tòa án công nhận quyền và nghĩa vụ dân sự cho họ.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giải quyết việc dân sự.

quyết của Tòa án và các điều kiện thụ lý khác. Trong trường hợp các điều kiện đã
bảo đảm, người yêu cầu đã tiến hành nộp án phí thì Tòa án tiến hành thụ lý việc dân
sự.
- Thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu. Trong giai đoạn này, Thẩm phán phụ
trách việc giải quyết việc dân sự tiến hành các công việc như thông báo thụ lý việc
dân sự, nghiên cứu đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ mà người yêu cầu gửi kèm
theo, yêu cầu các đương sự giao nộp, bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ, thực hiện
một số biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự,…Sau khi đã chuẩn
bị đầy đủ các điều kiện để đưa việc dân sự ra giải quyết, Tòa án sẽ ra quyết định mở
phiên họp giải quyết việc dân sự. Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự
phải được gửi cho VKSND cùng cấp, người yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.


- 11 -

- Thủ tục mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Thủ tục tiến hành phiên họp
giải quyết việc dân sự được tiến hành theo Điều 314 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm
2011. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, Thẩm phán sẽ nghe người yêu cầu hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày yêu cầu, căn cứ, lập luận để chứng minh
cho yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp pháp; nghe người có quyền và lợi ích liên
quan hoặc những người đại diện của họ trình bày ý kiến của mình về những vấn đề
liên quan đến giải quyết việc dân sự; trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu ý
kiến của người giám định, người làm chứng,…Nhất thiết phải có ý kiến của vị đại
diện Viện kiểm sát tham gia phiên họp về việc giải quyết việc dân sự. Theo quy
định tại Điều 107 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có quy định Viện kiểm sát
có quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và tại Điều 21 BLTTDS sửa đổi bổ
sung năm 2011 có quy định nguyên tắc kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự. Do đó, việc kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến của

Điều 55 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 thì không có sự tham gia của Hội thẩm
nhân dân tham gia trong quá thủ tục quyết việc dân sự. Như vậy có thể hiểu đối với
thủ tục giải quyết việc dân sự hoàn toàn do thẩm phán đảm nhiệm. Nguyên tắc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật quy định tại
Điều 12 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 không được áp dụng trong thủ tục
giải quyết việc dân sự bởi khi giải quyết việc dân sự không có sự tham gia của Hội
thẩm nhân dân mà chỉ có Thẩm phán đảm nhiệm giải quyết. Việc quy định như vậy
là hoàn toàn hợp lý bởi việc dân sự có tính chất tương đối đơn giản, không có tranh
chấp giữa các đương sự về quyền và lợi ích mà chỉ là việc yêu cầu Tòa án công
nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và lợi ích của các đương sự. Hơn nữa
khác với vụ án dân sự, mọi việc dân sự khi giải quyết đều có sư tham gia của Viện
kiểm sát (Điều 21 BLTTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011) do đó dù không có sự
tham gia của hội thẩm nhân dân nhưng luôn có một cơ chế giám sát đảm bảo Thẩm
phán thực hiện đúng quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự và ban hành những
quyết định chính xác.
Thứ hai, sự tham gia của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các
phiên họp giải quyết việc dân sự. Có thể hiểu rằng bất cứ phiên họp giải quyết việc
dân sự nào cũng đều phải có sự tham gia của kiểm sát viên. Khác với phiên tòa giải
quyết vụ án dân sự, ở cấp sơ thẩm viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa giải quyết
vụ án dân sự trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS sửa


- 13 đổi bổ sung năm 2011. Việc quy định Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên
họp giải quyết việc dân sự xuất phát từ việc cần phải có một cơ chế giám sát triệt để
trong quá trình giải quyết việc dân sự khi mà việc giải quyết chỉ do Thẩm phán phụ
trách mà không hề có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Quy định này sẽ đảm bảo
cho việc Thẩm phán phụ trách thực hiện đúng và không có những vi phạm quy định
về tố tụng khi giải quyết việc dân sự gây ảnh hưởng đến kết quả giải quyết cũng
như quyền và lợi ích của các đương sự.
Thứ ba, những người tham gia tố tụng trong giải quyết việc dân sự cũng có

Thứ sáu, Thủ tục giải quyết việc dân sự cũng áp dụng những quy định của
nguyên tắc hai cấp xét xử, tức là những quyết định việc dân sự cũng có thể kháng
cáo, kháng nghị trong một thời hạn nhất định để yêu cầu giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 280 và Điều 318 BLTTDS sửa đổi bổ
sung năm 2011 thì thủ tục sơ thẩm việc dân sự được tiến hành công khai, còn thủ
tục phúc thẩm việc dân sự không mở công khai, không triệu tập người yêu cầu và
những người có liên quan trừ khi thấy cần thiết.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
TUYÊN BỐ MỘT NGƢỜI MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT.
Cá nhân sinh ra là một thực thể xã hội đồng thời là thực thể pháp lí. Sự tồn
tại của cá nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đem lại cho các
cá nhân những quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Đồng thời, sự tồn tại của các
nhân bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ, liên quan với nhiều cá nhân khác trong
cộng đồng xã hội. Đồng nghĩa với việc đó, khi thiếu vắng sự hiện diện của họ sẽ
làm thay đổi quá trình tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội mà họ tham gia.
Sự tồn tại của cá nhân không những có ý nghĩa đối với quyền và nghĩa vụ của bản
thân cá nhân đó mà đôi khi nó còn có tác động đến những người khác có liên quan
đến cá nhân đó. Vì vậy, trong Bộ luật dân sự Việt Nam cũng như Bộ luật tố tụng
dân sự đã ghi nhận chế định về việc tuyên bố mất tích và tuyên bố chết đối với một
cá nhân, đây trở thành một chế định đặc biệt của luật dân sự.
Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 26 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 có quy
định: yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết được coi là những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án. Như vậy thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc
đã chết cũng mang những đặc điểm chung của thủ tục giải quyết việc dân sự. Để


- 15 hiểu rõ hơn thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết
chúng ta cùng đi sau nghiên cứu những tại những phần sau.


- 16 tự thủ tục tố tụng do Tòa án có thẩm quyền tiến hành để xem xét chấp thuận
hay không chấp thuận yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết từ
giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu đến khi có quyết định giải quyết của Tòa án.
Như đã nói trên, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết là một
loại việc dân sự nên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết cũng giống như thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung. Tuy nhiên có sự khác
biệt, đó là trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết, Tòa án phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố
mất tích hoặc là đã chết. Thủ tục này là bắt buộc trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích (Điều 331 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011). Đối
với quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, BLTTDS không có
quy định về thủ tục thông báo, tuy nhiên mục đích của thủ tục thông báo là để bảo
đảm tính chính xác của quyết định tuyên bố một người là đã chết. Do đó, khi giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết thì thông báo tìm kiếm cũng là thủ tục
bắt buộc. [18;tr386]
Bản chất của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã
chết là yêu cầu Tòa án xác nhận một sự kiện pháp lý, từ sự kiện pháp lý đó sẽ là cơ
sở để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan khởi kiện đề nghị Tòa án có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp trong một vụ án khác. Đồng thời, sự kiện pháp lý đó
cũng là cơ sở để quyết định việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích hoặc
là đã chết, tránh tình trạng tẩu tán tài sản của người đó.
Thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết bước đầu đã
được đề cập đến trong Thông tư số 3-NCLP ngày 03 tháng 3 năm 1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Theo quy định tại điềm c, Mục 2
Thông tư số 3-NCLP thì nếu người chồng hoặc người vợ đi đâu không rõ tin tức gì
đã trên dưới hai năm mà người vợ hoặc người chồng ở nhà xin ly hôn thì Tòa án thụ
lý giải quyết, trừ trường hợp người vắng mặt do thực hiện nghĩa vụ do nhà nước
giao. Tòa án có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cơ sở nơi người xin ly
hôn cư trú. Thủ tục xét xử loại việc này quy định tại điểm v, Mục 2 Thông tư số 3NCLP: “Thẩm phán điều tra xác minh sự vắng mặt và thời gian vắng mặt của người

và 3 Phần III Nghị quyết số 03/HĐTP quy định:
“1. Tòa án có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cấp huyện nơi
thường trú của người khởi kiện hoặc nơi thường trú cuối cùng mà người khởi kiện
yêu cầu Tòa án xác định là mất tích hoặc đã chết.


- 18 2. Tòa án có thể xác định một người là mất tích, nếu đã quá hai năm hoặc có
thể xác định một người đã chết nếu đã quá năm năm mà ở nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú cuối cùng (và ở nơi tạm trú thường xuyên cuối cùng nếu có) của người
đó, không có tin tức gì về người đó.
Trong trường hợp không thể xác định được ngày nhận tin tức cuối cùng về
người vắng mặt thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày đầu của tháng tiếp sau
tháng nhận được tin tức cuối cùng về người vắng mặt, còn trong trường hợp không
thể xác định được tháng đó thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày 1 tháng 1
năm tiếp sau đó.
3. Đối với những người có thể chết trong một tai nạn nhất định như bị lũ lụt
cuốn trôi, bị đắm tàu, đi trên máy bay bị mất liên lạc v.v…. Nếu sau thời hạn sáu
tháng từ ngày xảy ra tai nạn mà không có tin tức gì chứng tỏ là người đó còn sống,
thì Tòa án xác định là người đó đã chết vào ngày xảy ra tai nạn đó.”
Theo quy định của PLGQCVADS và Phần III Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19
tháng 10 năm 1990 thì Tòa án có thể giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết như một vụ án độc lập, không nhất thiết phải giải quyết cùng
với việc giải quyết ly hôn hay một loại việc khác. Tuy nhiên Pháp lệnh cũng chưa
có sự phân định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự mà đều giải quyết
vụ án dân sự và việc dân sự thông qua một thủ tục. Ngày 28 tháng 10 năm 1995,
BLDS đầu tiên được ban hành, theo đó tại Điều 88 và Điều 91 đã quy định cụ thể về
quyền yêu cầu và điều kiện để xác định một người mất tích hoặc là đã chết.
Ngày 15 tháng 6 năm 2004, BLTTDS (BLTTDS năm 2004) đã được Quốc
hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Theo đó yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status