skkn một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5 6 tuổi trường mầm non đông khê, huyện đông sơn - Pdf 49

MỤC LỤC
TT
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.3.
2.3.1

2.3.2

2.3.3

2.3.4

2.3.5
2.4
3.

TIÊU ĐỀ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

TRANG
1-3
1-2
2
3
3
3-19
3-5
5-6
5
5-6
6
7-18
7-9

9-13

13-15

15-17

17-18
18-19
19-20
19-20



cấp cho trẻ vốn hiểu biết những gì xung quanh mình, từ môi trường tự nhiên
(cỏ, cây, hoa, lá) đến môi trường xã hội (công việc của mỗi người trong xã
hội, mối quan hệ của con người với nhau)…..
Để đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, cô giáo mầm non giữ một vị
trí, vai trò rất quan trọng đối với trẻ. Người trực tiếp dẫn dắt trẻ, giúp trẻ cảm
nhận và thêm yêu cuộc sống thiên nhiên không ai khác chính là cô giáo. Vì
thế đòi hỏi cô giáo có một trách nhiệm và tinh thần rất cao, phải là người có
tính sáng tạo, luôn tìm tòi khám phá, tích cực trong khi tổ chức các hoạt động
giáo dục cho trẻ. Cô giáo là người quyết định toàn bộ hoạt động sáng tạo của
trẻ, điều khiển sự phát triển của trẻ phù hợp với lứa tuổi. Chính vì thế mối
quan hệ của cô và trẻ là mối quan hệ gắn bó, chia sẻ lẫn nhau, không áp đặt
gò ép trẻ. Từ đó phát triển tích cực hoạt động sáng tạo và hình thành ở trẻ một

1


số phẩm chất đạo đức tốt, biết phân biệt giữa cái đẹp, cái xấu trong sinh hoạt
hàng ngày để từ đó trẻ biết hướng tới cái đẹp và làm theo cái đẹp.
Tóm lại: Hoạt động Khám phá khoa học là hoạt động giúp trẻ đi tìm
kiếm và khai thác tất cả những gì diễn ra xung quanh mình trong cuộc sống.
Một hoạt động mà ở đó có cả một sự sáng tạo phát triển và khai thác ở trẻ vốn
ngôn ngữ phong phú, óc tư duy sáng tạo và trí tưởng tượng.
Thực tế hiện nay việc dạy hoạt động Khám phá khoa học cho trẻ còn tẻ
nhạt, vẫn còn tình trạng giáo viên ngại dạy hay dạy cho qua loa, không bài
bản dẫn đến trẻ chưa có hứng thú học tập, bên cạnh đó hình thức của cô trong
quá trình dạy trẻ chưa phong phú, việc sử dụng những thủ thuật gây hứng thú
khi vào bài của cô chưa có sự đầu tư, sáng tạo. Đứng trước thực trạng này bản
thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi thấy việc tìm ra những giải
pháp mang lại hiệu quả cao nhằm nâng cao chất lượng dạy hoạt động Khám
phá khoa học cho trẻ là rất cần thiết. Vì vậy, trong năm học 2017 - 2018 tôi đã



1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy hoạt động Khám phá
khoa học cho trẻ 5-6 tuổi trường mầm non Đông Khê, huyện Đông Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Thông qua việc quan sát hoạt động
của trẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Thông qua việc trực tiếp giảng dạy hàng
ngày của bản thân và dự giờ của các đồng nghiệp.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với các giáo viên trong nhà trường,
trò chuyện trực tiếp cùng trẻ.
- Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp thống kê toán học
Thống kê kết quả thực hiện từng tiêu chí theo hai thời điểm trong năm
học để so sánh.
Xử lý số liệu, thông tin thu được thông qua việc sử dụng các phép tính
toán học.
* Phương pháp thu thập thông tin
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về vai trò của thế giới xung quanh đối với trẻ mầm non. Sưu tầm tư liệu, hình
ảnh thông tin thực tế ở nhà trường và ở tại lớp mình phụ trách.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp hệ thống hóa
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về vai trò của thế giới xung quanh đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Sưu tầm tư
liệu, hình ảnh qua thông tin thực tế ở các nhà trường trên địa bàn huyện.

Cái gì?...” Tạo điều kiện cho trẻ được khám phá thế giới xung quanh vừa giúp
trẻ phát triển về mọi mặt như phát triển: ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ
và thể lực... và quan trọng hơn là giúp trẻ tự tin hòa nhập vào môi trường
thiên nhiên, môi trường xã hội một cách thuận lợi hơn. Khám phá với môi
trường xung quanh để trẻ được giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình và
đồng thời là công cụ của tư duy. Vì vậy các nhà giáo dục cần sử dụng nhiều
phương pháp để cho trẻ tiếp cận với thể giới xung quanh.
Môi trường xung quanh vô cùng phong phú. Nó là một thế giới rộng
lớn với biết bao màu sắc và các đồ chơi đẹp luôn luôn mời gọi, thôi thúc tâm
hồn nhạy cảm và đức tính hiếu động, tò mò của trẻ thơ. Ở độ tuổi 5-6 tuổi,
khả năng nhận thức của trẻ chủ yếu được phát triển qua việc tiếp xúc, tìm hiểu
đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu, qua các hoạt động tìm hiểu cây cối,
con vật, và các hiện tượng tự nhiên và cuộc sống xã hội. Việc cho trẻ Khám
phá khoa học, đồng thời các kỹ năng tự sáng tạo, kỹ năng tư duy cũng như
cách thức trình bày, giải thích những gì trẻ thu nhận khám phá được còn lúng
túng và chưa chuẩn xác.[1]
Mặt khác đặc điểm của trẻ độ tuổi 5-6 tuổi, cơ thể trẻ đang phát triển
mạnh về nhận thức, tư duy, về ngôn ngữ, về tình cảm. Trẻ rất ham học hỏi,
thích tìm tòi, khám phá và tìm hiểu về thế giới xung quanh, thế giới khách
quan xung quanh đối với trẻ thật bao la, rộng lớn, có biết bao điều mới lạ,
hấp dẫn, và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được
khám phá. Trẻ thực sự là những chủ thể với những năng lực riêng, có khả
năng tư duy, sáng tạo và giao tiếp với mọi người. Trẻ có kỹ năng nghe, hiểu
lời nói của người khác và nói cho người khác hiểu. Trẻ 5-6 tuổi chủ động, độc
lập, có sáng kiến, biết tự tìm kiếm các phương thức giải quyết các nhiệm vụ
đặt ra, tự kiểm tra...kết quả trong hoạt động học và chơi. Trẻ 5-6 tuổi tập trung
chú ý và nỗ lực, cố gắng giải quyết và hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt
động của trẻ.
Tóm lại: Cho trẻ khám phá môi trường xung quanh có tầm quan trọng
đặc biệt đối với sự phát triển tâm lý của trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và độ

trường đã phân trẻ theo đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
đứng lớp trong quá trình giảng dạy chăm sóc .
Bản thân tôi là một giáo viên yêu nghề, mến trẻ, luôn tận tình giảng
dạy và chăm sóc trẻ, luôn được sự tín nhiệm của phụ huynh, được học sinh
yêu mến, được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường về cơ sở vật chất
và tinh thần rất lớn, điều này là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho bản
thân tôi, tạo niềm tin yêu và niềm say mê trong nghề nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên bản thân tôi còn gặp một số
khó khăn sau:
2.2.2. Khó khăn
Tuy cơ sở vật chất đã được cải thiện song vẫn còn thiếu một số trang
thiết bị hiện đại để phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Lớp tôi chủ
nhiệm với tổng số là 35 trẻ, vì số cháu nam nhiều hơn nữ nên trẻ nam rất hiếu
động, hay nghịch và đôi lúc còn rất khó bảo.
Nhận thức của cha mẹ trẻ về vấn đề cho trẻ đến trường mầm non là
không đồng đều. Dẫn đến tình trạng vẫn còn một số trẻ không đến trường
5


mầm non ở lớp Nhỡ, lớp Bé nên không được làm quen với nề nếp học tập, vì
vậy không đồng đều về chất lượng.
Việc dạy hoạt động Khám phá khoa học của giáo viên chưa được chú ý
nhiều, giáo viên đang nặng về lý thuyết, cố gắng dạy hết bài, cung cấp, truyền
đạt đầy đủ kiến thức đến trẻ là xong, chưa quan tâm đến hứng thú của trẻ vào
bài học, chưa đánh giá được kết quả tiếp thu ở trẻ được bao nhiêu?
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã có những hoạt động học cho trẻ được
trải nghiệm để Khám phá khoa học. Sau khi khảo sát thực tế kết quả thu được
như sau:
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 9/2017 như sau:

35
17
48.6
18
51.4
chất liệu, đặc điểm của đối tượng khi
t tham gia họat động
* Nhận xét:
Sau khi tiến hành khảo sát tôi thấy chất lượng trẻ còn quá thấp:
Ở nội dung thứ nhất, đánh giá về hứng thú tích cực tham gia các hoạt
động cùng cô và các bạn, tỷ lệ mới chỉ đạt 45.7 %.
Nội dung thứ hai, đánh giá về việc trẻ chăm chú quan sát đưa ra nhận
xét về đặc điểm rõ nét của sự vật, đối tượng khi tham gia hoạt động, tỷ lệ mới
chỉ đạt 42.8 %.
Đặc biệt ở nội dung thứ ba, về khả năng biết so sánh và đưa ra những
điểm khác và giống nhau về đặc điểm của đối tượng khi quan sát, tỷ lệ mới
chỉ đạt 34.3 %.
Ở nội dung 4, về khả năng phân loại theo công dụng, chất liệu, đặc điểm
của đối tượng khi tham gia họat động của trẻ mới đạt 48.6 %.
Trước thực trạng này bản thân vô cùng lo lắng về chất lượng của lớp.
Bởi vậy tôi đã tìm tòi, học hỏi, tham khảo tài liệu, học tập kinh nghiệm của
đồng nghiệp và vận dụng vào thực tế quá trình giảng dạy của mình để lôi
cuốn, tạo hứng thú cho trẻ tham gia vào hoạt động, có như thế mới có chất
lượng tốt nhất ở trẻ.

6


Qua quá trình thực hiện với một số giải pháp đã sử dụng bản thân tôi
thấy có tính khả thi cao xin chia sẻ cùng đồng nghiệp.

nhiệm vụ trọng tâm của mình, kết hợp với việc chỉ đạo của nhà trường phát
động mỗi tháng ít nhất giáo viên có 2 đồ dùng, đồ chơi tự tạo có hiệu quả, vừa
là phục vụ dạy học và cũng là kết quả mà nhà trường chỉ đạo đưa ra để kiểm
tra xem giáo viên có thực hiện không? Và thực hiện có hiệu quả không? Với
chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương
như: vải vụn, cọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm tranh ảnh
cho tiết dạy. Sưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến, sò... để tạo thành
đồ chơi của trẻ. [5]
Ngay từ đầu năm học dựa vào yêu cầu thực tế trong quá trình dạy trẻ,
tôi đề nghị với nhà trường trang bị thêm thiết bị hiện đại như: máy chiếu và
thay mới một số đồ dùng đã cũ, hỏng trong lớp như: tranh ảnh, lôtô, bảng
từ...ngoài ra tôi còn thay đổi trang trí, sắp đặt nhóm lớp gọn gàng, khoa học
với mục đích tạo điều kiện không gian, địa điểm, cơ sở vật chất đầy đủ, tốt
nhất có thể để phục vụ tất cả các hoạt động của trẻ đạt kết quả cao.
Với các bậc phụ huynh tôi vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh
truyện, đặc biệt là tranh, sách, hình ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả...
Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết
về thế giới xung quanh của trẻ.
Ngoài ra tôi còn huy động sự hỗ trợ, quyên góp các nguyên vật liệu của
các bậc phụ huynh ở lớp, phụ huynh hỗ trợ để cùng cô giáo có nhiều nguyên
vật liệu tăng thêm phần phong phú cho chủ đề, để trẻ được tham gia vào hoạt
động làm đồ dùng, đồ chơi cùng cô. Từ những nguyên vật liệu thiên nhiên
như các loại lá, cánh hoa, củ, quả, hạt cát, vỏ trứng, vỏ hến, vỏ ốc...và các
nguyên vật liệu khác như: vải vụn, giấy các loại, đất nặn, màu nước...tôi đã sử
dụng và làm một số đồ chơi tượng trưng phù hợp với chủ đề.
Ngoài những đồ dùng, đồ chơi được nhà trường cấp cho như: tranh dạy
hoạt động khám phá khoa học, lô tô các loại....Ngoài ra tôi còn tự làm đồ
dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa
lá... Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ hoạt động khám
phá. Tận dụng các hình ảnh ở lốc lịch, bìa, họa báo, ảnh cũ...Vừa trang trí lớp,

ra, so sánh và phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch.
2.3.2. Giải pháp 2: Sử dụng câu đố, bài hát, hình ảnh... để làm giàu
vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh và tạo hứng thú cho trẻ khi
tham gia vào hoạt động.
Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo ở giai đoạn trẻ 5-6 tuổi, hoạt động
tâm lý của trẻ đặc biệt nhạy cảm với những hình tượng cụ thể, sinh động về
các sự vật và hiện tượng của hiện thực. Trẻ tiếp thu những tri thức dưới dạng
trực quan-hình tượng rất dễ dàng.

9


Vì thế khi tổ chức cho trẻ khám phá thế giới xung quanh trẻ chúng ta
kết hợp hình ảnh minh họa để trẻ được trực tiếp quan sát sẽ mạng lại hiệu quả
cao.
Thế giới xung quanh luôn là điều mới lạ, trẻ luôn muốn được tìm tòi,
được quan sát, được tiếp xúc, được hiểu biết nhiều hơn về mối quan hệ đơn
giản giữa các sự vật xung quanh từ đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ của trẻ
ngày càng phong phú, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và tư duy của trẻ.
Thông qua việc cho trẻ tìm hiểu về thế giới xung quanh để như là
phương tiện rèn luyện cho trẻ phát triển ngôn ngữ nói, nó có tác dụng to lớn
trong việc hình thành nhân cách cho trẻ mầm non.
Mặt khác mục tiêu chính của việc cho trẻ làm quen với thế giới xung
quanh là giúp trẻ phát triển về kỹ năng, thẩm mỹ, hình thành tình yêu đối với
thiên nhiên cuộc sống con người xung quanh trẻ.
Vì thế khi tôi tổ chức cho trẻ khám phá môi trường xung quanh, để tạo
hứng thú kích thích sự chú ý của trẻ, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tôi
rất có ý thức quan tâm đến cung cấp biểu tượng của đối tượng cần cho trẻ
khám phá. Tùy từng chủ đề, từng đối tượng, tôi cung cấp biểu tượng về thế
giới xung quanh đến với trẻ qua nhiều hình thức như: Câu đố, bài hát, tranh

Để tránh nhàm chán đối với trẻ trong mỗi đề tài tôi chọn mỗi bài với
mỗi mẫu vật, hay tranh ảnh, để cho trẻ quan sát kỹ, cho trẻ đưa ra nhiều ý
kiến nhận xét để tìm ra đầy đủ và chính xác đặc điểm vật mẫu.
Ví dụ 2: Hay cho trẻ tìm hiểu vể Hoa Cúc, tôi đọc câu đố cho trẻ nghe.
“Hoa gì tươi thắm sắc vàng
Cánh dài thường nở muộn màng vào thu?” [3]
Trẻ đoán ngay được đó là hoa cúc, nhưng trong đầu trẻ biểu tượng về
hoa cúc đã được chính xác là cánh màu vàng, dài, xếp với nhau rất đẹp, hoa
cúc thường được mẹ mua về cắm vào lọ trưng bày cho đẹp. Kết hợp tôi cho
trẻ xem hình ảnh minh họa về bông hoa cúc vàng.

Hình ảnh: Hoa cúc vàng[6]
11


Tôi cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm của bông hoa cúc: Hoa màu vàng
trông rất rực rỡ, cánh hoa dài, xếp với nhau tạo thành bông to, xen lẫn là các
nụ hoa như những chiếc cúc áo thật đẹp… Sau đó tôi đặt câu hỏi gợi mở “Các
con có biết Hoa cúc thường dùng để làm gì không ? ”
Bằng những hiểu biết của mình về loài hoa đã phổ biến và trẻ đã từng
biết, từng được nhìn và trẻ đã cảm nhận được về đặc điểm của hoa. Trẻ sẽ suy
nghĩ và trả lời những câu hỏi của cô về bông hoa cúc.…
Như vậy không những trẻ biết được những đặc điểm của hoa cúc; mà
trẻ còn biết môi trường sống của hoa, cách chăm sóc hoa như (Hoa rất cần có
đủ nguồn nước để sống?...).
Khi trẻ đã nắm rõ đặc điểm trẻ sẽ quan sát dễ hơn, từ đó so sánh rất rõ
ràng và phân loại cũng rất tốt.
Trong hoạt động khám phá khoa học tôi lồng ghép tích hợp các hoạt
động khác như: “Toán, âm nhạc, tạo hình, văn học … để trẻ thêm hứng thú,
ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn.

duy, làm phong phú vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Trong quá trình dạy
trẻ tôi cũng lồng ghép kiến thức về toán sơ đẳng như: Sau khi làm quen với
các loài hoa, tôi và trẻ cùng đếm số lượng hoa được trồng trong chậu cảnh hay

13


được cắm trong bình thủy tinh..... So sánh đặc điểm của những loài hoa để
phân biệt về cấu tạo, màu sắc, mùi hương....
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho trẻ được trực tiếp làm một số thí
nghiệm đơn giản để nâng cao khả năng phán đoán, suy luận, quan sát, so
sánh, và phân loại ở trẻ.
Trẻ 5- 6 tuổi là giai đoạn ở trẻ có những biến đổi quan trọng trong sự
phát triển tâm lí, nhận thức, là lứa tuổi trẻ chuyển từ nhận thức cảm tính sang
nhận thức lý tính. Khi đó, khả năng phán đoán, suy luận ở trẻ cũng được hình
thành và phát triển. Đây cũng là giai đoạn trẻ có nhu cầu rất lớn trong nhận
thức và phản ánh thế giới xung quanh, trong việc tìm hiểu, khám phá về các
sự vật, hiện tượng tự nhiên gần gũi, quen thuộc.[5]
Mặc dù khả năng phán đoán, suy luận đã được hình thành và phát triển,
song trẻ 5-6 tuổi vẫn thường phán đoán, suy luận theo lối tương tự (khi suy
luận, trẻ nhận ra quy luật và hiểu rằng quy luật đó sẽ lặp lại ở những tình
huống tương tự). Trẻ có thể phán đoán, suy luận những hiện tượng đơn giản
nhưng chưa có khả năng phán đoán trước kết quả nếu hoạt động đó chưa diễn
ra.
Ví dụ: Khi chưa làm thí nghiệm về đặc tính của nước, các lớp chất
lỏng trẻ sẽ không thể phán đoán được dầu ăn có tan trong nước hay không? và
khi cho dầu ăn vào nước hiện tượng gì sẽ xảy ra?...Tôi đã sưu tầm và cho trẻ
làm thí nghiệm như sau:
Thí nghiệm: Khám phá về nước: Các lớp chất lỏng.
- Mục đích: Giúp trẻ biết phân biệt các lớp chất lỏng khác nhau: dầu

khám phá về các hiện tượng tự nhiên giữ vai trò rất quan trọng. Các hiện
tượng tự nhiên gần gũi với trẻ theo chương trình giáo dục mầm non là: thời
tiết (nắng, mưa, gió, bão...), mùa; ngày và đêm, mặt trời, mặt trăng; nước;
không khí, ánh sáng; đất, đá, cát, sỏi. Các hiện tượng này luôn có sự thay đổi
không ngừng; ở những không gian và thời gian khác nhau thì chúng có những
biểu hiện khác nhau. Chính điều này đã tạo nên sự hấp dẫn rất lớn đối với trẻ,
kích thích trẻ tìm tòi, khám phá từ đó phát triển khả năng phán đoán, suy luận
của trẻ.
Muốn phát triển khả năng quan sát, so sánh, và phân loại ở trẻ với mỗi
bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những thí nghiệm phù
hợp để trẻ nhận biết đối tượng bằng sự quan sát, cảm nhận và nhận xét.
Ví dụ:
Thí nghiệm 1: Sự cần thiết của nước với cây
Cách làm: Tôi chuẩn bị hai chậu cây, sau đó hằng ngày cho trẻ tưới nước
vào một chậu cây, chậu cây kia không tưới nước.
Sau một thời gian, cho trẻ quan sát hai chậu và đưa ra nhận xét.
=> Nước rất cần thiết và quan trọng đối với sự sống của cây. Nếu cây
không có nước cây sẽ chết vì khô héo.
Thí nghiệm 2: Khám phá đồ dùng gia đình
Cách làm: Tôi chuẩn bị một chậu nước, cho trẻ thả một số đồ dùng bằng
nhựa và bằng sứ vào. Từ đó, cho trẻ đưa ra nhận xét về đặc tính riêng của sứ
và nhựa.
=> Nhựa nhẹ nổi được trên mặt nước, sứ nặng nên bỏ xuống nước sẽ
chìm.
Với mỗi đối tượng trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến nhận
xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen như
vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó
mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng.
Sau khi trẻ được làm quen 3 đến 4 đối tượng trong một đề tài tôi cho trẻ
so sánh từng cặp 2 đối tượng một, để trẻ có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ

được còn thiếu chính xác và chưa có hệ thống vì thế tôi phải lựa chọn những
câu hỏi phù hợp với từng thời điểm của quá trình trẻ khám phá nhằm cung
cấp tri thức, sự hiểu biết cho trẻ, đồng thời phát triển các kĩ năng nhận thức,
giúp trẻ quan sát tốt hơn, kích thích trí tò mò, thích khám phá ở trẻ.
Ví dụ 1: Tôi đã cho trẻ đi dạo chơi tham quan vườn cổ tích của trường,
trẻ rất hào hứng vì khi cho trẻ tiếp xúc trực tiếp, được sờ và ngửi những bông
hoa cây cảnh, từ đó trẻ biết thêm về những đặc điểm của chúng.
Khi được quan sát các loài cây trong sân trường, tôi hỏi trẻ:
- Các con hãy gọi tên những loại cây mà con biết trong sân trường của
chúng mình nào? (trẻ lần lượt gọi tên từng loại cây)
- Con có nhận xét gì về cây này? (cho trẻ nhận xét về thân cây, cành
cây, những tán lá, màu hoa (quả), đặc điểm mùi hương của hoa, quả…. )
- Các con sờ tay vào thân cây và cho cô biết cảm nhận của con nào?
(trẻ trực tiếp được sờ vào thân của từng cây và đưa ra nhận xét có cây thân
nhẵn, cây thân xù xì…).
Từ đó giáo dục trẻ biết chăm sóc cây để cây cho hoa đẹp, quả ngon
Ví dụ 2: Khi tổ chức hoạt động chơi ngoài trời tôi cho trẻ quan sát khu
vực để các loại dụng cụ thể chất cho trẻ, gọi tên các loại đồ dùng thể chất và

16


trò chuyện về tác dụng, cách sử dụng từng loại dụng cụ. Từ đó giúp trẻ dễ
dàng hơn trong khi sử dụng với từng loại dụng cụ này.
Hay cho trẻ tham quan khu “Chợ quê ngày tết” với các mặt hàng quen
thuộc gần gũi, những mặt hàng gắn với địa phương…phục vụ cho ngày tết cổ
truyền của dân tộc.
Trẻ được quan sát, trò chuyện với thế giới sự vật, hiện tượng thự tế
xung quanh mình sẽ có tác dụng và hiệu quả rất lớn khi tôi tổ chức hoạt động
học Khám phá khoa học cho trẻ trong hoạt động có chủ đích trẻ không còn bở

hiện tượng xảy ra xung quanh buổi dạo chơi.

Hình ảnh: Bác nông dân đang cày ruộng
Hình ảnh: Vườn rau sạch
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại… khi
trẻ quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn
đối tượng đó .
Tóm lại: Dạo chơi tham quan hoạt động ngoài trời không những để trẻ
khám phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên,
ý thức bảo vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về
công việc của mỗi người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là
giáo dục kiến thức về an toàn giao thông với trẻ. Tạo cho trẻ thói quen và ý
thức khi tham gia giao thông như: Đi trên đường không chạy, không nô đùa,
đi bên tay phải, hoặc là nhìn những tín hiệu giao thông…
2.3.5. Giải pháp 5. Làm tốt công tác phối kết hợp giữa nhà trường,
và phụ huynh.
Việc kết hợp giữa nhà trường và phụ huynh là không thể thiếu được,
giúp trẻ luyện tập được nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên
nhiên, về xã hội phong phú và đa dạng hơn.
Ví dụ 1: Ở chủ đề “Phương tiện và luật lệ giao thông” với đề tài
“Phương tiện giao thông đường bộ” trước đó một tuần tôi đã thông báo cho
phụ huynh biết về hoạt động và biết chủ đề đang học để phụ huynh ủng hộ
các loại hộp bánh bằng bìa cứng, bằng sắt, các bìa xốp, lõi chỉ …mang đến
lớp cho lớp. Tôi đã dùng các phế thải đó cùng với trẻ tạo ra các loại phương
tiện giao thông, để xây dựng mô hình cho trẻ. Kết quả là khi trẻ được trải
nghiệm với đồ chơi tự tạo sẽ lôi cuốn được sự chú ý của trẻ.
Ví dụ 2: Ở chủ đề “Quê hương, đát nước, trường Tiểu học” cũng với
cách thông báo cho phụ huynh trước một tuần về chủ đề sắp học, khuyến
khích phụ huynh ủng hộ các loại tranh ảnh, họa báo cũ, sách cũ về cảnh đẹp
18

100
0
hoạt động cùng cô và các bạn.
Trẻ chăm chú quan sát đưa ra nhận
xét về đặc điểm rõ nét của sự vật,
35
35
100
0
đối tượng khi tham gia hoạt động.
Biết so sánh và đưa ra những điểm
35
30
85.7
5
14.3
khác và giống nhau về đặc điểm của
đối tượng khi quan sát.
Khả năng phân loại theocông dụng,
chất liệu, đặc điểm của đối tượng khi
35
32
91.4
3
8.6
tham gia họat động
* Nhận xét: Qua kiểm tra đánh giá quá trình thực nghiệm, kết quả thực
nghiệm chứng tỏ việc sử dụng các giải pháp trên đã giúp trẻ có tiến bộ rõ rệt.
Chất lượng trẻ đã được nâng lên, cụ thể:
Nội dung thứ nhất, đánh giá về đánh giá về hứng thú tích cực tham gia

3. KẾT LUẬN
Qua thực hiện các biện pháp vào quá trình giảng dạy bản thân tôi đã rút
ra một số kết luận sau:
- Muốn giúp trẻ học tốt hoạt động khám phá khoa học ở lứa tuổi mầm
non cô giáo trước hết phải thực sự yêu nghề, mến trẻ nắm bắt yêu cầu phương
pháp của bộ môn học này phải linh hoạt, kiên trì trong công việc dạy trẻ, vì
quá trình hình thành nhân cách con người là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi
phải lặp đi lặp lại nhiều lần do đặc tính của lứa tuổi là nhanh nhớ, nhanh quên.
Vì vậy muốn hình thành ở trẻ dù chỉ là một hành vi, cử chỉ cũng cần phải rèn
luyện thường xuyên, liên tục thì mới thành công.
- Khi thực hiện đề tài này bản thân tôi luôn xoay quanh nội dung làm
thế nào để tìm ra những giải pháp thật hữu hiệu, thật hấp dẫn để cho trẻ hứng
thú khi vào hoạt động một cách tích cực, không nhàm chán, tôi phải tìm tòi,
sáng tạo đặt ra những tình huống hấp dẫn, những hình ảnh, đồ dùng thật đẹp
sinh động, đặt những câu hỏi gợi mở có nội dung phong phú, gần gũi với trẻ,
cố gắng cho trẻ được trải nghiệm thật nhiều để hoạt động khám phá khoa học
của trẻ được tốt.
- Thực hiện nghiêm túc chương trình, qua đó đúc rút kinh nghệm qua
từng bài dạy để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Biết cách kết hợp
giữa nhà trường và phụ huynh.
- Thường xuyên làm đồ dùng, đồ chơi, tham mưu với nhà trường bổ
sung cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho hoạt
động của trẻ.

20


Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã thực hiện để nâng cao chất
lượng dạy hoạt động Khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi trường mầm non
Đông Khê. Đề tài chắc không tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót, bản thân rất

sóc giáo dục trẻ 5-6 tuổi.
[5]. Huỳnh Văn Sơn. “Khả năng phán đoán, suy luận của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở nội thành TP. Hồ Chí Minh”. Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học
Đà Nẵng, số 6 (41), 2010.
[6] Sưu tầm hình ảnh trên Internet

22


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN
NGÀNH GD&ĐT HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Lê Thị Xuân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường mầm non Đông Khê

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi
thông qua bộ môn văn học
thể loại truyện kể

2.





Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status