Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hoá học 12 ban KHTN - Pdf 50

A. PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
1. Tính thời sự của đề tài
Hiện nay chất lượng giáo dục đang trở thành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết để nâng cao
chất lượng của giáo dục hơn bao giờ hết trong tất cả những ngành học và bậc
học. Chính vì thế toàn ngành phải có trách nhiệm để nâng cao chất lượng của
giáo dục.
Đối với chương trình THPT nói chung và bộ môn Hoá Học nói riêng
hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy cho học sinh
phương pháp tư duy khoa học, phương pháp học tập bộ môn mà chỉ trọng
tâm truyền đạt tri thức, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ phát
triển trí tuệ của học sinh mà còn ảnh hưởng nhiều tới quá trình hình thành
nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thiết lập hệ
thống các phương pháp tạo thành một mối liên hệ chặt chẽ để vận dụng
giảng dạy bộ môn hoá học, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo chất lượng
cho quá trình dạy học đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay
Một trong những nội dung đổi mới việc kiểm tra đánh giá đo lường
chất lượng nhận thức của học sinh, một vấn đề được coi là quan trọng trong
quá trình dạy học. Lý luận dạy học đã khẳng định. Kiểm tra đánh giá trình độ
nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là một khâu đặc biệt quan trọng
trong dạy học nói chung và trong quá trình nhận thức của từng học sinh nói
riêng, nhằm đảm bảo được mối liên hệ ngược làm khép kín chu trình vận
động của quá trình dạy học, là khép kín các thông tin, thông báo và các
thông tin phản hồi. Từ những vấn đề đòi hỏi mới trên giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp – phương tiện kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với nội dung chương trình, phù hợp
với nền giáo dục hiện đại
Có thể nói việc kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể thiếu của quá
trình dạy học. Việc kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo,

Đối với chương trình hoá học việc vận dụng câu hỏi trắc nghiệm
khách quan vào kiểm tra đánh giá phần nào còn hạn chế và chưa được áp
dụng nhiều vào từng lớp và từng khối trong chương trình phổ thông
Chính vì lý do như vậy tôi chọn đề tài “Góp phần nghiên cứu xây
dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh
giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh
Phúc” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình
* Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho những đề xuất về chính sách
cho việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá vào quá trình đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá của bậc THPT nói chung và trong Hoá học
lớp 12 nói riêng
2. Mục đích của đề tài
- Xây dựng được ngân hàng câu hỏi TNKQ chuẩn cho bộ môn Hoá
Học 12 ban KHTN trong trường THPT
- Sử dụng ngân hàng câu hỏi TNKQ vào kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Làm rõ sự khác biệt về đổi mới kiểm tra đánh giá bằng ngân hàng
câu hỏi TNKQ và phương pháp tự luận (viết và vấn đáp)
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Ngân hàng câu hỏi TNKQ có khoảng 350 -400 câu được chuẩn hoá
từ khoảng 600 câu cho kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN
- Chỉ nghiên cứu thử nghiệm sử dụng vào việc kiểm tra đánh giá cho
khối lớp 12 trong trường THPT Yên Lạc 2. Tỉnh Vĩnh Phúc

3
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
* Câu hỏi nghiên cứu
- Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ

- Nghiên cứu cơ sở lý luận để lựa chọn xây dựng ngân hàng câu trắc
nghiệm vào bộ ngân hàng câu hỏi trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Lựa chọn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho
bộ môn Hoá học 12 ban KHTN trong chương trình THPT
- Đề xuất việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Thử nghiệm với các câu hỏi nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả
của đề tài.

5
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Ở Châu Âu và Mỹ lĩnh vực khoa học đo lường trong giáo dục phát triển
rất mạnh vào thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Mặc dù khoa học
đo lường trong giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây một thế kỉ)
Để đánh dấu một bước phát triển rất mạnh lĩnh vực đo lường trong
giáo dục có các dấu mốc quan trọng một loạt các trắc nghiệm và kĩ thuật ra

cho thi 4 môn, ngoài Anh ngữ và Toán còn thi thêm đọc hiểu và suy luận
khoa học.
Còn Nhật Bản, Trung tâm quốc gia về Tuyển sinh đại học" được thành
lập năm 1977 tổ chức kỳ thi tuyển chung cho hấu hết các trường đại học
công và tư của Nhật Bản hàng năm. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể,
mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tuỳ theo quy định
của trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm một kỳ
thi, Trung tâm này chi tiêu hàng năm cỡ 100 triệu USD.
Với Thái Lan kỳ thi tuyển sinh đại học liên kết được tổ chức cho hầu hết
các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có
thể xin dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998
Thái Lan bắt đầu cải tiến kỳ thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học
ở trường phổ thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần.
Ở Trung Quốc từ năm 1989 tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung
học được giao cho các địa phương, còn kỳ thi tuyển đại học được tổ chức
thống nhất trên cả lục địa Trung quốc vào đầu tháng 7 hàng năm và đề thi
chủ yếu bằng ngân hàng câu hỏi TNKQ
Còn ở nước ta khoa học về đo lường trong giáo dục ở trong tình trạng
khá lạc hậu và phát triển rất chậm. Mãi đến năm 1974 một hoạt động đáng
lưu ý là kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương
pháp trắc nghiệm khách quan.
Ở Miền Bắc nước ta trước đây khoa học này ít được lưu ý vì trong hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa cũ, kể cả Liên Xô, khoa học này rất kém
phát triển. Vào những năm sau 1975 ở phía Bắc nước ta có một số người có
nghiên cứu về khoa học đo lường trong tâm lý. Chỉ đến năm 1993 Bộ Giáo
dục và Đào tạo mới mời một số chuyên gia nước ngoài vào nước ta phổ biến

7
về khoa học này cũng như cử một số cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó
một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương

8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
1. Cơ sở lí luận
1.1 Một số khái niệm trong đo lường đánh giá giáo dục
Sau đây là một số khái niệm tiêu biểu
1.1.1. Đánh giá (Evaluation) trong giáo dục.
- Định nghĩa của Jean Marie De Ketele: Đánh giá có nghĩa là
+ Thu thập thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy
+ Xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với một tập
hợp các tiêu chí phù hợp với mục tiêu định ra ban đầu hay đã điều chỉnh
trong quá trình thu thập thông tin
+ Nhằm ra một quyết định
- Định nghĩa của Ralph tyler: Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình
xác định mức độ thực hiện các mục tiêu trong các chương trình giáo dục
- Định nghĩa của E.Beeby: Đánh giá giáo dục là sự thu thập lí giải một
cách hệ thống những bằng chứng, như một phần của quá trình, dẫn tới sự
phán xét về giá trị theo quan điểm hoạt động
- Định nghĩa của Robert F.mager: Đánh giá là việc miêu tả tình hình
của học sinh và giáo viên để dự đoán viêc phải tiếp tục làm để giúp học sinh
tiến bộ
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy khái niệm đánh giá trong giáo
dục khi thì được các tác giả tiếp cận theo mục đích, yêu cầu, nội dung của
một phạm vi hoạt động cụ thể, khi thì được tiếp cận ở một bình diện khái
quát; khi thì được tiếp cận theo hướng nhấn mạnh của mục tiêu, khi thì được
tiếp cận theo hướng nhấn mạnh về tính chất, về quy trình [11 ]
Dựa trên những định nghĩa trên, Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc
trong cuốn “ Cơ sở lí luận của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh
phổ thông đã đưa ra định nghĩa sau đây “Đánh giá trong giáo dục là quá


10
1.1.3. Thi (Examanition)
Thi: Làm bài theo đề đã ra nhằm kiểm tra kiến thức hoặc tay nghề để
công nhận đạt trình độ, tiêu chuẩn nào đã có sẵn [17]
Theo khoa học giáo dục: Thi cũng là kiểm tra nhưng có tầm quan
trọng hơn được dùng khi kết thúc một giai đoạn đào tạo. Nếu trong kiểm tra
Có tính chất “ tổng kết” (summative) có thể nổi trội hoặc không nổi trội so
với tính chất “quá trình”(formative) thì trong thi tính chất tổng kết luôn luôn
là tính chất nổi trội so với tính chất quá trình [11]
1.1.4. Đo: (Measurement).
Đo: Xác định độ lớn của một đại lượng, một vật bằng những dụng cụ
chuẩn xác [17]
Trong khoa học giáo dục “đo” được hiểu là so sánh một cách hệ thống
các kiến thức, kĩ năng và thái độ của một cá nhân hoặc tập thể người học đã
đạt được với một hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ được dùng làm
chuẩn. Khi sử dụng khái niệm “đo” trong đánh giá là muốn khẳng định tính
định lượng, tính chính xác, tính đơn nhất của kết quả đánh giá [11]
1.1.5.Kết quả học tập (Study achievement): có thể được hiểu theo hai cách
khác nhau tuỳ theo mục đích của việc đánh giá
+ Kết quả học tập được coi là mức độ thành công trong học tập của
học sinh, được xem xét trong mối quan hệ với mục tiêu đã xác định, chuẩn
kiến thức và kĩ năng cần đạt được mà công sức thời gian người học bỏ ra.
Theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là mức độ thực hiện tiêu chí
(Criterion)
+ Kết quả học tập cũng được coi là mức độ thành tích đã đạt được của
một học sinh so với các bạn cùng học, theo cách định nghĩa này thì kết quả
học tập là mức độ đạt chuẩn (norm) [11]
1.2 Mục tiêu dạy học, mục đích học tập
* Mục tiêu dạy học là những gì học sinh cần đạt được sau khi học
xong môn học, nó bao gồm:

người học

12
- Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kĩ năng trên
dựa trên những dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được.
- Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về
các yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số.
- Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đặt ra rồi
đánh giá, xem xét kết quả học tập của học sinh, xem xét mức độ thành công
của phương pháp giảng dạy của thầy… để từ đó cải tiến, khắc phục những
nhược điểm
Điều quan trọng trong đánh giá là quán triệt nguyên tắc vừa sức, bám
sát yêu cầu của chương trình.
Đánh giá kết quả học tập dựa trên tiêu trí dạy học sẽ nhận những thông
tin phản hồi chính xác nhằm bổ sung, hoàn thiện quá trình dạy học.
Như vậy, kết quả học tập là mức độ thực hiện các tiêu chí hay các
chuẩn mực, theo mục đích học tập đã được xác định trong chương trình giáo
dục [16+ 6]
1.4 Ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá.
Việc kiểm tra – đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp
thời những thông tin “ liên hệ ngược trong” giúp người học tự điều chỉnh
hoạt động học. Nó giúp cho học sinh kịp thời nhận thức mức độ đạt được
những kiến thức của mình, còn lỗ hổng kiến thức nào cần được bổ sung
trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập có cơ hội để nắm
chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình. Ngoài ra
thông qua kiểm tra – đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động
trí tuệ: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá, khái quát hoá, hệ thống kiến thức.
Nếu việc kiểm tra - đánh giá chú trọng phát huy trí thông minh, linh hoạt vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết những tình huống thực tế thì việc kiểm
tra – đánh giá được tổ chức nghiêm túc, công bằng sẽ giúp học sinh nâng cao

ngắt lời học sinh, có thái độ tế nhị và nhạy cảm, hiểu biết cá tính của học
sinh để tạo điều kiện cho học sinh trả lời một cách tốt nhất.
* Sau khi học sinh trả lời, giáo viên phải uốn nắn, bổ sung kiến thức
còn thiếu hay hiểu sai, chưa chính xác của học sinh, rèn luyện cho học sinh

14
cách trả lời ngắn gọn, xúc tích, chống thái độ quá dễ dãi. Giáo viên phải có
thái độ nghiêm khắc, đúng mực, khách quan.
Kiểm tra viết
Ở trường phổ thông hiện nay, kiểm tra viết là hình thức kiểm tra 15
phút, 1 tiết (45 phút) và kiểm tra học kì (45 phút trở lên) dưới hình thức tự
luận.
- Mục đích của bài kiểm tra viết.
*Qua bài làm của học sinh, giáo viên có thể đánh giá được trình độ
nắm kiến thức, kĩ năng, đánh giá được sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn,
cách diễn đạt một vấn đề của học sinh.
*Kết quả bài kiểm tra viết giúp giáo viên đánh giá tình hình tiếp thu
chung của toàn bộ học sinh trong lớp về một vấn đề, một nội dung nào đó.
Ngoài ra nó còn giúp cả giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả dạy học của
những khoảng thời gian dạy học nhất định.
Tuy nhiên, đối với một bài kiểm tra trong một khoảng thời gian nhất
định giáo viên chỉ có thể kiểm tra học sinh một phần rất hạn chế của nội
dung chương trình học do số lượng câu hỏi ít, công cụ đánh giá ít chính xác
vì học sinh có thể quay cóp tài liệu, chép bài của nhau trong lúc kiểm tra.
- Thực hiện bài kiểm tra viết môn học.
* Với bài kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể báo trước hoặc không báo
trước, có thể kiểm tra đầu tiết hoặc cuối tiết, nhưng bài một tiết (45 phút), thì
nên báo trước để học sinh chuẩn bị.
Giáo viên cần chuẩn bị 2, 3 … đề có nội dung, khối lượng, mức độ
khó của kiến thức, kĩ năng tương đương giữa các lớp.

hiểu biết những ý niệm, sở thích và khả năng diễn đạt tư tưởng.
* Hình thành cho học sinh kĩ năng sắp xếp ý tưởng, suy diễn, khái
quát hoá, phân tích, tống hợp… phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo.

16
* Việc chuẩn bị câu hỏi dễ hơn ít tốn công hơn, so với câu hỏi trắc
nghiệm khách quan.
- Nhược điểm của trắc nghiệm tự luận
* Bài kiểm tra theo kiểu tự luận thì số lượng câu hỏi ít, việc chấm
điểm lại phụ thuộc vào tính chất chủ quan, trình độ người chấm do đó có độ
tin cậy thấp.
* Cũng do phụ thuộc vào tính chủ quan của người chấm nên nhiều khi
cùng một bài kiểm tra, cùng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác
nhau hoặc cùng một bài kiểm tra nhưng do hai người khác nhau chấm, kết
quả sẽ khác nhau, do đó phương pháp này có độ giá trị thấp.
* Vì số lượng câu hỏi ít nên không thể kiểm tra hết các nội dung trong
chương trình, làm cho học sinh có chiều hướng học lệch, học tủ.
2.2.2. Trắc nghiệm khách quan [10]
Khái niệm
TNKQ là phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học
sinh bằng hệ thống câu hỏi TNKQ gọi là “ khách quan” vì cách chấm điểm
hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người chấm.
* Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan
- Do số lượng của câu hỏi nhiều nên phương pháp TNKQ có thể kiểm
tra nhiều nội dung kiến thức bao trùm gần cả học phần, nhờ vậy buộc học
sinh phải học thật kĩ tất cả các nội dung kiến thức trong học phần.
- Phương pháp TNKQ buộc học sinh phải tự giác, chủ động, tích cực
học tập. Điều này tránh được tình trạng học tủ, học lệch trong học sinh.
- Thời gian làm bài từ 1 ÷ 3 phút một câu hỏi, hạn chế được tình trạng
quay cóp và sử dụng tài liệu.

không cho biết quá trình tư duy, thái độ của học sinh đối với nội dung được
kiểm tra, do đó không đảm bảo đươc chức năng phát hiện lệch lạc của kiểm
tra để từ đó có sự điều chỉnh việc dạy và việc học.

18
- Do sẵn có phương án trả lời câu hỏi, nên TNKQ khó đánh giá được
khả năng quan sát, phán đoán tinh vi, khả năng giải quyết vấn đề khéo léo,
khả năng tổ chức sắp xếp, diễn đạt ý tưởng, khả năng suy luận, óc tư duy độc
lập, sáng tạo và sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn của học sinh.
- Việc soạn được câu hỏi đúng, chuẩn là công việc thực sự khó khăn,
nó yêu cầu người soạn phải có chuyên môn khá tốt, có nhiều kinh nghiệm và
phải có thời gian. Điều khó nhất là ngoài một câu trả lời đúng thì các phương
án trả lời khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý.
- Do số lượng câu hỏi nhiều bao trùm nội dung của cả chương trình
học nên câu hỏi chỉ đề cập một vấn đề, một kiến thức, câu không khó do đó
hạn chế việc phát triển tư duy cao ở học sinh khá giỏi. Có thể có một số câu
hỏi mà những học sinh thông minh có thể có nhưng câu trả lời hay hơn đáp
án đúng đã cho sẵn, nên những học sinh đó không cảm thấy thoả mãn.
- Khó soạn được một bài TNKQ hoàn hảo và tốn kém trong việc soạn
thảo, in ấn đề kiểm tra và học sinh cũng mất nhiều thời gian để đọc câu hỏi.
Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có thể chia làm các loại chính như sau:
2.2.2.1. Trắc nghiệm “đúng sai” Câu đúng sai là câu trắc nghiệm yêu cầu người thi phải phán đoán
đúng hay sai đối với một câu trần thuật hoặc câu hỏi, cũng chính là để người
thi tuỳ ý lựa chọn một trong hai đáp án đưa ra.
* Ưu điểm của câu đúng sai
+ Ra đề dễ dàng. Đề thi vừa có thể là câu trần thuật vừa có thể là câu

* Câu nhiều lựa chọn phủ định
Các phương án lựa chọn của câu nhiều lựa chọn có một đáp án sai, khi
đưa ra đáp án yêu cầu đối tượng thi tìm ra đáp án sai này.
* Câu nhiều lựa chọn theo hình thức tốt nhất chỉ có một phương án
đúng (tốt nhất), còn các phương án khác, tuy ở một mức độ nào cũng đúng
nhưng chúng đều không phải là đúng nhất.

20
* Câu nhiều lựa chọn suy diễn.
Câu nhiều lựa chọn suy diễn là căn cứ vào quan hệ của hai sự vật đã
đưa ra để suy diễn, lý luận cho quan hệ của hai sự vật khác. Cách thức đưa ra
phương án của nó vẫn là lựa chọn một phương án thích hợp nhất trong một
số phương án lựa chọn.
* Câu nhiều lựa chọn hỗn hợp
Câu nhiều phương án lựa chọn hỗn hợp là do một số đơn độc hoặc
một số nhóm đáp án đơn độc không giống nhau tạo nên
Ưu điểm của câu nhiều lựa chọn
+ Nó thích hợp sử dụng cho tài liệu nhiều loại tầng bậc nhận thức
+ Trả lời thuận tiện
+ Đọc đề thi tiết kiệm thời gian, sức lực và đánh giá khách quan
+ Cơ hội đoán đúng đáp án giảm đi. Nếu đối tượng thi toàn bộ làm
dựa vào đoán thì cơ hội đoán đúng ở mỗi câu đúng sai là 50%, còn cơ hội để
đoán đúng ở câu có 5 phương án lựa chọn chỉ là 20%. Đối với toàn bộ bài
trắc nghiệm mà nói, thì cơ hội điểm số có được để có thể qua kì thi mà toàn
bộ lại dựa vào đoán là bằng 0.
+ Số lượng câu để tạo nên một lần trắc nghiệm cũng khá lớn, phạm vi
lấy mẫu đề thi cũng rộng, tính đại diện mạnh, vì thế nó chính là phương pháp
áp dụng nhiều để tiêu chuẩn hoá trắc nghiệm.
+ Giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra - đánh giá những
mục tiêu dạy học khác nhau.

thoả mãn.
+ Các câu hỏi nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng phán
đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu
nghiệm bằng loại câu hỏi TNTL soạn kĩ.
+ Ngoài ra, tốn kém giấy mực để in đề các loại câu hỏi này so với các
loại câu hỏi khác và cũng cần nhiều thời gian để học sinh đọc nội dung câu hỏi.

22
2.2.2.3. Trắc nghiệm ghép đôi:
Trắc nghiệm ghép đôi là một loại của câu lựa chọn, cấu kết của nó bao
gồm hai phần: một là, nhóm vấn đề; hai là, nhóm phương án lựa chọn đã
chuẩn bị. Khi trả lời yêu cầu học viên dự thi chọn ra một phương án thích
hợp nhất từ trong các lựa chọn trong mỗi vấn đề. Mỗi lựa chọn có thể sử
dụng một lần, cũng có thể sử dụng nhiều lần, cũng có thể một lần và cũng có
thể không sử dụng.
* Ưu điểm của trắc nghiệm ghép đôi:
+ Thích hợp sử dụng nhất cho đo lường tri thức mang tính sự kiện và
tính tương quan giữa các sự kiện.
+ Hiệu suất trắc nghiệm khá cao, diện kiến thức phủ khắp tương đối
rộng trong thời gian trắc nghiệm.
+ Câu hỏi ghép đôi dễ viết, dễ dùng, loại này thích hợp với tuổi học
sinh THCS hơn. Có thể dùng loại câu hỏi này để đo các mức trí năng khác
nhau Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ
thức hay lập các mối tương quan.
* Nhược điểm của trắc nghiệm ghép đôi:
+ Nhược điểm của nó vẫn là tồn tại những nhân tố đoán mò.
+ Loại câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi không thích hợp cho việc thẩm
định các khả năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức. Muốn soạn lại loại
câu hỏi này để đo mức trí năng cao đòi hỏi nhiều công phu. Ngoài ra nếu
danh sách mỗi cột dài thì tốn nhiều thời gian cho học sinh đọc nội dung mỗi

hỏi nhiều lựa chọn.
2.3. Câu hỏi phối hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan loại nhiều
lựa chọn với tự luận [16]
- Đây là loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan loại nhiều lựa chọn được
đặt thêm 01 câu hỏi giải thích dưới dạng thành văn “Hãy giải thích một cách
ngắn gọn vì sao chọn phương án đó”? Với loại câu hỏi này học sinh phải

24
dùng cách hành văn của chính mình để viết ra cách giải, cách suy luận, giải
thích để đưa đến kết quả mà mình đã chọn.
-
Loại câu hỏi này gần như mang đầy đủ các ưu điểm của loại câu hỏi
TNKQ loại nhiều lựa chọn và loại câu hỏi TNTL
.
Đặc biệt là nó khắc phục
được nhược điểm của loại câu hỏi nhiều lựa chọn: Loại bỏ khả năng đoán
mò, đánh giá được khả năng tư duy sáng tạo, đánh giá được trình độ tư duy
của học sinh như câu hỏi TNTL, đánh giá được khả năng sử dụng ngôn ngữ
chuyên môn của học sinh để sắp xếp, diễn đạt, trình bày một vấn đề và ít tốn
thời gian chấm bài, khách quan hơn TNTL.

- Tuy nhiên loại câu hỏi nhiều lựa chọn đã khó soạn nay lại phối hợp
với tự luận càng khó hơn vì câu hỏi này phải có nội dung như thế nào để giáo
viên đo được những gì cần đo, muốn đo mà phương pháp trắc nghiệm khách
quan không thực hiện được.

-
Khi chọn những câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn để phối hợp với tự
luận có những điểm cần lưu ý sau:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status