Hội chứng dễ bị tổn thương(frailty) và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại bệnh viện lão khoa trung ương - Pdf 57

1
1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Già hóa dân số là một trong những vấn đề toàn cầu và ảnh hưởng lớn đến tất
cả các khía cạnh của xã hội. Hiện nay trên thế giới cứ chín người thì có một người
có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên và con số này dự tính đến năm 2050 sẽ tăng lên, cứ năm
người sẽ có một người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên. Tại Việt Nam, tỷ lệ dân số từ 60
tuổi trở lên đang ở nhóm cao nhất thế giới và dự kiến sẽ chạm ngưỡng 10% tổng
dân số vào năm 2017 (ngưỡng thể hiện cơ cấu dân số già), đến năm 2037, tỷ trọng
người từ 60 tuổi trở lên ở nước ta sẽ tiếp tục tăng nhanh, dự báo lớn hơn hoặc bằng
20% tổng dân số [1]. Như vậy vấn đề già hóa dân số đã đặt ra một thách thức lớn
đối với ngành y tế trong việc chăm sóc, phòng ngừa và điều trị cho người cao tuổi.
Hội chứng dễ bị tổn thương (Frailty) là một hội chứng lão khoa, xảy ra do sự
tích tụ của quá trình suy giảm chức năng nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể, đặc
trưng bởi trạng thái dễ bị tổn thương với các yếu tố về thể chất, xã hội và môi
trường [2]. Hội chứng dễ bị tổn thương (HCDBTT) có thể dẫn đến nhiều hậu quả
bất lợi trên người cao tuổi như té ngã, suy giảm nhận thức, khuyết tật, sống phụ
thuộc, cũng như gia tăng tỷ lệ tử vong, sử dụng quá nhiều thuốc, kéo dài thời gian
nằm viện nhưng đồng thời đây cũng là một dấu hiệu tiên lượng quan trọng góp phần
ngăn chặn, trì hoãn tình trạng tiến triển nặng hơn [3]. Do đó phát hiện, sàng lọc và
can thiệp sớm những bệnh nhân cao tuổi có HCDBTT là biện pháp hữu hiệu nhằm
giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và chi phí cho xã hội.
Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về HCDBTT
trong cộng đồng cũng như trên bệnh nhân lão khoa nằm viện, tỷ lệ này có sự khác
nhau giữa các quốc gia, các chủng tộc và giới tính. Tỷ lệ mắc hội chứng này dao
động từ 4,0% đến 59,1%, tùy thuộc vào cộng đồng dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn
đánh giá HCDBTT [4]. Ngoài ra, HCDBTT cao hơn ở phụ nữ (30% tại Barbados
đến 48,2% ở Chilê) so với nam giới (21,5% ở Barbados đến 35,4% ở Brazil)
[5].HCDBTT trong các nghiên cứu trên bênh nhân lão khoa nhập viện rất cao, từ


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương
1.1.1. Định nghĩa
HCDBTT là một hội chứng lâm sàng thường gặp ở người cao tuổi, dự báo
nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như tình trạng té ngã, khuyết tật, tăng số lần
nhập viện và thậm chí là tử vong.
Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích trong việc phát hiện, sàng lọc và
can thiệp sớm, trong hai thập kỷ nay đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về hội
chứng này được công bố. Hầu hết các nhà lão khoa có thể xác định bệnh nhân có
HCDBTT theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, tuy nhiên vẫn chưa có sự đồng thuận về
định nghĩa của nó [2].
Khái niệm về HCDBTT xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1968 trong một nghiên
cứu cắt ngang trên các đối tượng cao tuổi trong cộng đồng. Nghiên cứu này đã phác
thảo HCDBTT như một phản ứng quá mức và không tương xứng của người cao tuổi
với những sự kiện bất lợi [10]. Đến cuối năm 1990, Roocwood và cộng sự đã đề
xuất HCDBTT là trạng thái trong đó người cao tuổi cần sống phụ thuộc vào người
khác để thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày [3]. Sau đó nhóm nghiên cứu
này đã nghiên cứu và phát triển thành chỉ số HCDBTT (Frailty Index (FI)), có khả
năng dự đoán nguy cơ cao tử vong và phải sống trong các trại dưỡng lão của người
cao tuổi [11].
Hầu hết các định nghĩa mô tả HCDBTT bao gồm các triệu chứng về suy
giảm chức năng, giảm sức khoẻ, giảm dự trữ sinh lý, dễ bị ốm đau và tử vong. Do
đó phần lớn các định nghĩa gồm có các triệu chứng lâm sàng về suy giảm tốc độ đi
lại, sức mạnh, sức bền, dinh dưỡng và hoạt động thể chất, một số định nghĩa khác
còn có suy giảm về nhận thức và trầm cảm [12].
Vào đầu năm 2000, Fried và các đồng nghiệp đã mô tả HCDBTT với các tiêu
chí khách quan nhằm tách biệt hội chứng này với tình trạng khuyết tật và tình trạng


bằng sinh học. Chỉ số tải ổn định phân phối bao gồm dấu ấn sinh học của tim mạch,
chuyển hóa, nội tiết và quá trình viêm có mối liên quan và là những dấu ấn cận lâm
sàng của HCDBTT [19].


5
5

- Thuyết phức tạp:
Thuyết phức tạp tập trung làm sáng tỏ sự tương tác trên toàn bộ hệ thống
điều khiển chi phối phản ứng của hằng định nội môi với những yếu tố căng thẳng
bên trong và bên ngoài cơ thể. Lý thuyết này tập trung trên cả chất lượng của sự
tương tác trong các hệ thống sinh học và số lượng tích lũy sinh lý bất thường [20].
Theo thuyết này “Sự suy giảm của mạng lưới phức tạp của các tín hiệu tương tác
sinh lý... có thể làm tổn hại đến khả năng gắn kết sinh lý bù trừ thích nghi để đáp
ứng với căng thẳng và dẫn đến tổn thương lâm sàng lớn hơn hay hội chứng dễ bị tổn
thương” [21]. Từ đó các nhà nghiên cứu đã đề xuất một số dấu ấn sinh học như một
phép đo đại diện cho sự suy giảm sinh lý phức tạp.
Tóm lại, HCDBTT có mối liên quan độc lập với suy giảm về số lượng của hệ
thống sinh lý, bất thường về chức năng của nhiều hệ thống, sự gia tăng dễ bị tổn
thương và rối loạn điều hòa trong một mạng lưới tương tác phức tạp.
1.2. Các giai đoạn của hội chứng dễ bị tổn thương
Các tác giả đã phân chia quá trình phát triển của HCDBTT thành ba giai đoạn,
mỗi giai đoạn đều liên quan đến sự suy giảm trong dự trữ cân bằng nội môi.
1.2.1. Tiền hội chứng dễ bị tổn thương (Pre frailty)
Tiền HCDBTT là giai đoạn lâm sàng diễn ra một cách thầm lặng, đây là một
trạng thái dự trữ sinh lý đủ để cho phép cơ thể phản ứng đầy đủ với bất kỳ tác nhân
gây bệnh như bệnh cấp tính, tổn thương hoặc các yếu tố căng thẳng với khả năng
hồi phục hoàn toàn.
1.2.2. Hội chứng dễ bị tổn thương

LÂM SÀNG THẦM LẶNG

ĐÁP ỨNG VỚI YẾU TỐ CĂNG THẲNG BÊN NGOÀI

SUY GIẢM LÂM SÀNG

BIẾN CHỨNG CỦA HCDBTT

KẾT QUẢ BẤT LỢI

TUỔI

Hình 1.1. Sự phát triển của hội chứng dễ bị tổn thương cùng
quá trình lão hóa [22, 23]
1.3. Cơ chế bệnh sinh của HCDBTT

Cơ chế cân bằng nội môi

HIỆU XUẤT

TIỀN HCDBTT


7
7

1.3.1. Cấp độ 1 - Thay đổi ở mức tế bào
Mặc dù không có nguyên nhân cụ thể gây ra HCDBTT, các nhà khoa học đã
nỗ lực để phác thảo cơ chế phân tử và hệ thống của nó. Theo Walston, ở mức độ tế
bào, sự tích lũy tổn thương oxy hóa là một trong những nguyên nhân dẫn đến

quan đến giảm khối lượng cơ và sức mạnh ngay cả trên người đàn ông lớn tuổi và
phụ nữ có hoạt động chức năng tốt. Trong một nghiên cứu tiến cứu dài 3,5 năm,
Ferrucci và các đồng nghiệp chứng minh rằng mức độ IL-6 tăng cao có khả năng dự
đoán nguy cơ cao phát triển khuyết tật về thể chất, suy giảm sức mạnh cơ và hiệu
suất hoạt động của cơ trong cộng đồng người cao tuổi [28].
Protein phản ứng C (CRP), được phát hiện vào năm 1930 như một chất
phản ứng ở giai đoạn cấp tính, một loại protein do gan sản xuất ra và được phóng
thích vào máu trong vòng một vài giờ sau khi mô bị tổn thương do bị nhiễm khuẩn
hoặc nguyên nhân khác gây ra viêm. Ngoài ra nồng độ protein phản ứng C cao có
liên quan đến bệnh tim mạch. Hai nghiên cứu thuần tập lớn đã chứng minh mối liên
quan trực tiếp của dấu ấn viêm này với hội chứng dễ bị tổn thương. Trong nghiên
cứu sức khỏe tim mạch, Walston và các đồng nghiệp đã chỉ ra mối liên quan đáng
kể của nồng độ protein phản ứng C cao trong HCDBTT sau khi loại trừ bệnh tim
mạch và bệnh tiểu đường và điều chỉnh các đặc điểm nhân khẩu học cơ bản. Dữ liệu
từ các nghiên cứu dọc về lão hóa đã tiếp tục khẳng định những phát hiện này [27].
Một số nghiên cứu thuần tập lớn ở người lớn tuổi đã chứng minh rằng tăng
cao số lượng bạch cầu, mặc dù ở trong giới hạn bình thường, có liên quan đến bệnh
tim mạch và mạch máu não, tử vong do tim mạch và ung thư, cũng như tất cả các
nguyên nhân gây tử vong ở người cao tuổi. Nghiên cứu gần đây đã chứng minh mối
quan hệ trực tiếp của HCDBTT với sự gia tăng số lượng bạch cầu cũng như tăng
cao của số lượng bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân. Một sự tương tác hiệp
đồng tiềm năng giữa bạch cầu và IL-6 với hội chứng dễ bị tổn thương cũng đã được
đề xuất [27].
Mặc dù giá trị trung bình của các dấu ấn viêm không cao như trong các bệnh
viêm nhiễm, nhưng nó ở mức độ thấp, mạn tính và gây hoạt hóa các cơ chế viêm ở
người lớn tuổi có hội chứng này.
1.3.2.2. Rối loạn điều hòa hệ thống nội tiết
Một trong những giả thuyết cơ chế của HCDBTT là sự rối loạn của các hormon
đồng hóa. Nghiên cứu của Cappola và đồng nghiệp đã cho thấy những đối tượng có


là dấu hiệu quan trọng trong cơ chế sinh lý sự phát triển của HCDBTT.
Pieper và đồng nghiệp nghiên cứu trên 1.729 người tham gia từ 70 tuổi trở
lên chứng minh rằng tuổi tác ngày càng tăng có liên quan đến mức D-dimer cao.


10
10

Hager và cộng sự tại Đức nghiên cứu trên cộng đồng người cao tuổi khỏe mạnh và
thấy rằng mức độ fibrinogen tăng 25 mg/dL mỗi thập kỷ và mức cao 320 mg/dL
được tìm thấy trong hơn 80% số người trong độ tuổi 65 trở lên. Ngoài ra các dấu ấn
đông máu khác, chẳng hạn như chất ức chế hoạt hóa plasminogen (PAI) -1 và yếu tố
VIII đã được chứng minh tăng cao theo tuổi. Rõ ràng rằng quá trình lão hóa có liên
quan với các dấu hiệu đông máu kích hoạt. Trên thực tế đáng chú ý là tỷ lệ huyết
khối tĩnh mạch và tắc nghẽn mạch phổi tăng đáng kể trong người cao tuổi [33].
D-dimer và các dấu ấn khác của trình hoạt hóa đông máu có liên quan với
sự hạn chế trong một loạt các lĩnh vực chức năng, bao gồm cả hoạt động độc lập với
cuộc sống hàng ngày, chức năng chi dưới và trên kiểm tra nhận thức [33].
Các nghiên cứu cho thấy IL-6 cũng đóng một vai trò quan trọng trong tổng
hợp và giải phóng fibrinogen, yếu tố mô, yếu tố VIII và tiểu cầu từ nhiều mô.
Ngược lại, D-dimer được biết có khả năng kích thích sự tổng hợp và giải phóng các
cytokin tiền viêm, bao gồm IL-6 và bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi. Như vậy quá
trình viêm và đông máu có khả năng tạo thành một vòng xoắn tương tác với nhau
[33] .
1.3.2.4. Rối loạn điều hòa chuyển hóa
Bằng chứng cho thấy sự gia tăng tình trạng kháng insulin xảy ra cùng với
quá trình lão hóa, dẫn đến sự suy giảm hấp thu glucose của cơ xương [34]. Nghiên
cứu của Abbatecola và cộng sự cũng mô tả mối quan hệ giữa kháng insulin cao và
các các chỉ số lâm sàng của HCDBTT, chẳng hạn như suy yếu cơ xương, các vấn đề
về di động chi dưới, khuyết tật thể chất và suy giảm nhận thức [35]. Do đó kháng

bào T và tử vong ở phụ nữ lớn tuổi ở cộng đồng cho thấy phụ nữ cao tuổi có
HCDBTT có số lượng CD8 cao hơn đáng kể so với những phụ nữ không có hội
chứng này [39].
Sự hiểu biết về thay đổi của tế bào lympo B trong HCDBTT đến nay còn
chưa rõ ràng.
1.3.3. Cấp độ 3 - Suy yếu hệ thống
Thay đổi trên hệ cơ- xương- khớp và nhận thức thần kinh là những thành
phần quan trọng của HCDBTT trong các tài liệu nghiên cứu và đại diện cho suy
giảm ở mức độ cao trong chuỗi các sự kiện sinh lý bệnh.
1.3.3.1. Suy yếu hệ thống cơ xương


12
12

Teo cơ người già (Sarcopenia) xuất hiện cùng với quá trình lão hóa và là một
trong những thành phần chính trong kiểu hình của HCDBTT. Trong nhiều nghiên
cứu [40] teo cơ người già là hậu quả nặng nề cho người cao tuổi vì nó gắn liền với
nguy cơ suy giảm chức năng và tàn tật [41]. Sự mất khối lượng cơ theo tuổi không
diễn ra đơn độc mà được gắn kết chặt chẽ với sự tăng khối lượng mỡ. Sự gia tăng
khối lượng mỡ và giảm khối lượng cơ bắp có thể phối hợp với nhau và dẫn đến teo
cơ béo phì (Sarcopenic obesity). Trong nghiên cứu gồm 923 đối tượng tham gia từ
65 tuổi trở lên cho thấy những đối tượng có HCDBTT có mật độ và khối lượng cơ
bắp thấp hơn, khối lượng chất béo cao hơn những đối tượng không có hội chứng này
[42]. Teo cơ béo phì đặc biệt đáng lo ngại vì nó gắn liền với suy giảm chức năng và
gần như tăng gấp đôi nguy cơ tàn tật trong 2,5 năm theo dõi [43].
Trong nghiên cứu của Koster và cộng sự cho thấy lượng mỡ dư thừa trong
cơ thể là một yếu tố quyết định mạnh mẽ của suy giảm chức năng thể chất ở người
lớn tuổi. Quan trọng hơn, chất béo ở người lớn tuổi là ưu tiên tích lũy phân bố trung
tâm, do đó là một yếu tố nguy cơ lớn đối với rối loạn chuyển hóa [44].

dục, bệnh mạn tính.


14
14

HCDBTT
Yếu đuối
Chậm chạp
Hoạt động thể chất thấp
Năng lượng thấp, Sút cân
Suy giảm giác quan
KẾT QUẢ TRUNG GIAN
Bệnh tật
khuyết tật
Nguy cơ té ngã
Suy giảm nhận thức
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe……
TửSửvong

Mức

SUY GIẢM H

(Cơ xương, n

thần k
RỐI L

(Nội tiết, Đ

động hoặc giảm hoạt động sống hàng ngày (ADL), tái nhập viện và tử vong.
Bên cạnh các tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT dựa trên các triệu chứng và dấu
CÁC YẾU TỐ

hiệu về thể chất còn có các thành phần quan trọng khác như tâm trạng, nhận thức,

TUỔI

khiếm khuyết giác quan và các khía cạnh kinh tế - xã hội - cuộc sống của người cao

CHỦNG TỘC

tuổi.

GIÁO DỤC

1.4.2. Biểu hiện sinh hóa

CÁC BỆNH MẠN TÍ

LỐI SÔNG
Như đã trình bày trong phần cơ chế bệnh sinh, HCDBTT có liên quan mật
SUY GIẢM DINH

thiết với quá trình viêm, đông máu, rối loạn điều hòa nội tiết tố và trao đổi chất. Do


16
16


về thể chất và nhận thức, yếu tố nguy cơ về tâm lý xã hội và các hội chứng lão khoa
phổ biến khác. Một trong những tác động của phương pháp này là HCDBTT có thể
được coi là một hiện tượng phức tạp. Tác giả đã đề xuất sử dụng FI-CGA để giải
quyết sự phức tạp và nâng cao chăm sóc cho bệnh nhân. Thông qua đánh giá về sức
khỏe tổng thể (các bệnh kèm theo), chức năng, nhận thức, tâm trạng và động lực, các
cảm giác đặc biệt, dinh dưỡng và các loại thuốc, công cụ này tạo điều kiện cho việc xác
định các vấn đề sức khỏe và can thiệp thích hợp và theo dõi cho họ. Là một phần của
một kế hoạch quản lý toàn diện, FI-CGA cũng hỗ trợ độc lập liên tục và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho một cá nhân, kết hợp với giảm chi phí chăm sóc sức khỏe [11].
FI dường như là một yếu tố dự báo nhạy cảm đối với bất lợi về sức khỏe, tuy
nhiên, chỉ số FI không thể phân biệt HCDBTT với khuyết tật và tình trạng đa bệnh
lý. Hơn nữa xây dựng chỉ số FI gây khó khăn cho các nhà khoa học trong việc tìm
hiểu sâu hơn về cơ chế của HCDBTT [56].
1.5.2. Thang điểm HCDBTT Edmonton (Edmonton Frail Scale)
Thang điểm HCDBTT Edmonton được thiết lập dựa trên chín lĩnh vực, bao
gồm: suy giảm nhận thức được kiểm tra thông qua yêu cầu thực hiện bài kiểm tra
vẽ đồng hồ; thời gian đứng lên và đi cho sự cân bằng và di động, ngoài ra còn có
các lĩnh vực khác như tâm trạng, độc lập về chức năng, các thuốc sử dụng, hỗ trợ


18
18

về xã hội, dinh dưỡng, thái độ về sức khỏe, vấn đề tiểu tiện, tình trạng tổng quát và
chất lượng cuộc sống [57].
Thang điểm này có ưu điểm là đánh giá HCDBTT trên cả lĩnh vực hỗ trợ về
mặt xã hội, đây là một thang điểm có giá trị, đáng tin cậy và khả thi để sử dụng
thường xuyên bởi không cần người có chuyên môn sâu về lão khoa cũng có thể
đánh giá được thang điểm này [57].
Nhiều nghiên cứu áp dụng thang điểm này trên các cộng đồng khác nhau

Kiểu hình của HCDBTT đã được Fried và đồng nghiệp đề xuất gồm năm tiêu
chí: sút cân không chủ ý, tình trạng yếu đuối, sức bền và năng lượng kém, sự chậm
chạp, và mức hoạt động thể lực thấp. Mỗi tiêu chí được tính là một điểm nếu đạt
tiêu chuẩn. Khi đối tượng nghiên cứu đáp ứng ba trong số năm tiêu chí thì xác định
là có HCDBTT, từ một đến hai tiêu chí là tiền HCDBTT (Pre frailty), bệnh nhân
không có tiêu chí nào là không có HCDBTT .
1. Giảm cân không chủ ý 4,5 kg hoặc giảm 5% trọng lượng cơ thể so với
năm trước.
2. Tình trạng yếu đuối: cơ lực tay thấp hơn 20% so với mức cơ bản (đã điều
chỉnh theo giới và chỉ số khối cơ thể).
3. Sức bền và năng lượng kém: Tự báo cáo về tình trạng kiệt sức, xác định
bằng hai câu hỏi trong thang điểm CES–D.
4. Sự chậm chạp: nhỏ hơn 20% mức cơ bản đã được điều chỉnh theo giới tính
và chiều cao đứng, dựa trên thời gian đi bộ 15 bước.
5. Mức hoạt động thể lực thấp: Tổng số kilocalo tiêu hao trong mỗi tuần
được tính toán dựa trên bộ câu hỏi các hoạt động trong tuần qua.
HCDBTT xác định theo tiêu chí của Fried ngày càng nhận được sự đồng
thuận ngày càng cao của các nhà khoa học, thống nhất đây là một hội chứng lâm
sàng bao gồm nhiều dấu hiệu và triệu chứng. Bên cạnh đó lý thuyết của tác giả đưa
ra tạo điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu cơ chế sự phát triển của hội chứng
này [60].
Tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT theo Fried được Nghiên cứu sức khỏe tim
mạch (Cardio vascular Health Study) và Nghiên cứu sức khỏe phụ nữ và người cao
tuổi (Woman’s Health and Agging Studies (WHAS)) áp dụng được trình bày tại phụ
lục 3 [60].
1.6. Các yếu tố liên quan đến hội chứng dễ bị tổn thương


20
20



21
21

1.6.4. Tình trạng suy dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng nghèo nàn cũng góp phần gia tăng sự xuất hiện
HCDBTT [67, 68] Một trong những biểu hiện của suy dinh dưỡng là mức tiêu thụ
năng lượng hàng ngày. Nghiên cứu của Bartali cho thấy mối liên quan giữa số kcal
từ khẩu phần thấp hơn 21kcal/kg/ngày với hội chứng này trong 1.155 người tham
gia trong độ tuổi từ 65-102 [69]. Nghiên cứu một số chất dinh dưỡng suy giảm
(chẳng hạn như protein, vitamin A, C và E, canxi, folate và kẽm), độc lập với năng
lượng tiêu thụ, cũng liên quan đáng kể với hội chứng này. Walston và các đồng
nghiệp đề xuất các tác dụng chống viêm của chất chống oxy hóa trong chế độ ăn là
cơ chế chính liên kết với thiếu hụt vi chất dinh dưỡng và HCDBTT [68].
1.7. Hội chứng dễ bị tổn thương và các bệnh mạn tính
Trên các cuộc điều tra quy mô lớn cho thấy có mối liên quan giữa HCDBTT
và các bệnh mãn tính, bao gồm: Thiếu máu, nhiễm HIV, tăng huyết áp, bệnh răng
miệng, bệnh tim mạch, bệnh mắt, bệnh thận mãn tính, tình trạng suy giảm nhận
thức, đái tháo đường, bệnh Parkinson, gãy xương, tình trạng té ngã, trầm cảm, ung
thư và rối loạn giấc ngủ… Bên cạnh đó, việc điều trị các bệnh mạn tính bằng việc
dùng nhiều thuốc (polypharmacy) cũng góp phần dẫn đến HCDBTT.
1.7.1. Bệnh thiếu máu
Thiếu máu là bệnh lý phổ biến ở người cao tuổi trong cộng đồng, ước tính
26% ở nam giới và 20% phụ nữ. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa thiếu máu là khi
giá trị Hemoglobin (Hgb) thấp hơn 13g/dL đối với nam và dưới 12g/dL ở phụ nữ.
Người cao tuổi có HCDBTT tăng gấp đôi nguy cơ bị thiếu máu. Bằng chứng nghiên
cứu cho thấy có khoảng 1/3 số người cao tuổi mắc HCDBTT có thiếu máu không
giải thích được nguyên nhân, 1/3 có thiếu sắt, và 1/3 có thiếu máu do các bệnh mãn
tính [3].

Bệnh thận có mối tương quan với HCDBTT và ngược lại. Nghiên cứu về hội
chứng này và bệnh thận mạn tính cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa với tất cả
các giai đoạn của bệnh thận mạn tính và đặc biệt là với bệnh thận giai đoạn trung
bình đến bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối (ước tính mức lọc cầu thận dưới
45ml/min/1.73 m2) [72].
Bên cạnh đó, HCDBTT là một yếu tố tiên lượng xấu cho bệnh nhân và chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân thận mạn tính [73].
1.7.5. Bệnh đái tháo đường


23
23

Không dung nạp glucose, kháng insulin, và bệnh đái tháo đường có liên quan
đến HCDBTT. Tình trạng tăng đường huyết có mối liên quan với tỷ lệ lớn hơn
người cao tuổi mắc HCDBTT và tiền hội chứng này [74]. Bên cạnh đó, bệnh đái
tháo đường cũng có liên quan với HCDBTT và tăng gấp đôi nguy cơ tiến triển đến
tình trạng khuyết tật. Bệnh nhân đái tháo đường có hội chứng này được chứng minh
là tăng 1,6 lần nguy cơ té ngã và 1,7 lần nguy cơ gãy xương sau té ngã [3].
1.7.6. Loãng xương, gãy xương và tình trạng té ngã ở người cao tuổi
HCDBTT, bệnh loãng xương, té ngã và gãy xương có mối tương quan với
quá trình lão hóa. HCDBTT làm tăng nguy cơ giảm mật độ xương, té ngã và gãy
xương. Nguy cơ gãy xương chậu cao hơn 25 lần ở phụ nữ có hội chứng này với mật
độ xương thấp và có tiền sử té ngã. Hơn 50% phụ nữ mật độ xương thấp có teo cơ
người già và có HCDBTT. Dinh dưỡng, cân bằng, và sức mạnh chi dưới ảnh hưởng
đáng kể tình trạng té ngã và nguy cơ gãy xương và chiếm khoảng 10% lần khám tại
khoa cấp cứu và 6% của tất cả các trường hợp nhập viện trên người cao tuổi [3].
1.7.7. Bệnh ung thư
HCDBTT là khá phổ biến ở bệnh nhân cao tuổi bị ung thư, tỷ lệ ước tính
khoảng 88% và hội chứng này dự đoán kết quả bất lợi và tỷ lệ tử vong cao [3].

dáng đi và tình trạng kiệt sức. Các bệnh nhân có HCDBTT có nguy cơ mắc bệnh
parkinson ở mức độ nặng hơn so với bệnh nhân parkinson không có hội chứng này
[77, 78].
1.7.11. Trầm cảm
Mối liên quan giữa trầm cảm và HCDBTT đã được ghi nhận trong nhiều
nghiên cứu. Có thể giải thích mối liên hệ giữa HCDBTT về thể chất và triệu chứng
trầm cảm ở người lớn tuổi bằng một số bằng chứng gián tiếp. Đầu tiên, hầu hết các
bệnh nhân trầm cảm nặng dễ bị mắc HCDBTT bởi các yếu tố lối sống kết hợp với
trầm cảm như giảm hoạt động thể chất, không hoạt động, và không tuân thủ diều trị
thuốc. Tuy nhiên, hai hội chứng này dường như có một số cơ chế sinh lý bệnh thông
thường như sự thay đổi nội tiết tố được kích hoạt bởi trục hạ đồi - tuyến yên thượng thận, sự thay đổi nồng độ cortisol ngày- đêm, các yếu tố gây viêm (IL-6)…
[79]
Người cao tuổi bị trầm cảm có sự suy giảm trong các thành phần của
HCDBTT bao gồm sức mạnh cơ lực tay, tốc độ bước đi, mức độ hoạt động thể lực


25
25

và gia tăng mệt mỏi. Nghiên cứu cho thấy sự suy giảm trong hoạt động thể lực và
sự mệt mỏi liên quan đến việc tiến triển nhanh đến tử vong ở những người phụ nữ
bị trầm cảm [80].
1.7.12. Rối loạn giấc ngủ
Rối loạn giấc ngủ bao gồm mất ngủ và ngủ quá nhiều (hypersomnia), cả hai
đều có mối liên quan với HCDBTT cũng như kết quả bất lợi sức khỏe và tử vong ở
người cao tuổi. Cả triệu chứng ngủ quá nhiều và mất ngủ đều gia tăng trong những
đối tượng có HCDBTT.
Trầm cảm, suy giảm nhận thức, tình trạng dùng quá nhiều thuốc, đau đớn, và các
bệnh đi kèm cũng có ảnh hưởng đáng kể đến giấc ngủ. Rối loạn giấc ngủ và việc điều trị
cũng gia tăng tình trạng té ngã. Rối loạn hô hấp khi ngủ tăng trong HCDBTT và tăng 2,8


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status