Việt Nam qua các thời kì LS - Pdf 58

Lịch Sử Việt Nam Qua
Các Thời Kỳ
Mục lục
• 1 Tiền sử
• 2 Thời Hồng Bàng
o 2.1 Nước Xích Quỷ
o 2.2 Nước Văn Lang
o 2.3 Nước Âu Lạc
• 3 Thời Bắc thuộc
o 3.1 Nam Việt
o 3.2 Nhà Hán
o 3.3 Sau nhà Hán
• 4 Thời phong kiến độc lập
o 4.1 Xây dựng và bảo vệ đất nước
o 4.2 Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
• 5 Thời Pháp thuộc
• 6 Tuyên bố độc lập
• 7 Chiến tranh Đông Dương
• 8 Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
o 8.1 Đất nước chia cắt
o 8.2 Chiến tranh lan rộng
• 9 Thống nhất và độc lập
o 9.1 Giai đoạn mới gần đây
• 10 Sự thay đổi tên
• 11 Ghi chú
Tiền sử
Khu vực nay là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các nơi cư ngụ tại Núi Đọ,
Ninh Bình và Nga Sơn, Thanh Hóa

Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời
kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng (vào khoảng hơn 2500 năm trước Công Nguyên) Nền văn hóa Phùng Nguyên,

• Các tài liệu nghiên cứu hiện đại
[4]
phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của
người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở
Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với
nước Việt (Yue) của Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang - Trung Quốc
ngày nay.
Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đông bắc Văn Lang) của người Âu Việt đã bắt vua Hùng
Vương thứ 18 nhường ngôi cho mình và lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, ngày nay là huyện Đông Anh (Hà
Nội).
Thời Bắc thuộc
Nam Việt
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay)
nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN) đã cát cứ vùng đất quận Nam Hải, đánh chiếm
các khu vực lân cận như Âu Lạc, Quế Lâm (Quảng Tây).
Khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Triệu Đà khôi phục và thống nhất các khu vực ông quản lý ở Quảng Đông, Quảng
Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay và tạo ra một vương quốc tên là Nam Việt. Chữ "Việt" là tên được người Trung
Quốc đặt cho những người sống ở vùng đất phía nam của đế quốc nhà Hán, kể cả thổ dân đồng bằng sông Hồng. Triệu
Đà chia vương quốc Nam Việt thành 9 quận quân sự, ba quận phía nam - Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân - là phần đất
của Âu Lạc. Các Lạc hầu vẫn cai quản vùng châu thổ sông Hồng,
nhưng với địa vị chư hầu cho Nam Việt.
Nhà Hán
Lãnh thổ Việt Nam thuộc nhà Hán năm 87 TCN
Trang - 2 -

Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung
Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Ấn Độ và Indonesia.
Trong thế kỷ thứ nhất, các tướng Lạc vẫn còn được giữ chức. Trong thế kỷ thứ 1, Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng
hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu

Tuy nhiên, từ thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Lịch sử Việt Nam, từ khi Đại Việt độc lập vào thế kỷ 10, mang dấu ấn của hai
khuynh hướng chính. Dấu ấn đầu là sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mô
hình kiểu Trung Hoa. Sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu chính
quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa; cơ cấu luật pháp, hành chính, văn
chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.
Dấu ấn thứ hai là sự bành trướng xuống phương Nam. Với một quân đội có tổ chức hơn, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất
nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Giữa thế kỷ 11 và 17, Đại Việt đã tiêu diệt
Trang - 3 -

vương quốc Champa (ngày nay là miền Trung Việt Nam). Tiếp đó (thế kỷ 17, 18) xâm chiếm đồng bằng Nam Bộ của
người Khmer và vào đầu thế kỷ 19 cạnh tranh giành ảnh hưởng với Thái Lan ở Campuchia.
Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương
thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các
vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động sản xuất, thương mại hầu như chưa phát triển
mặc dù vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán với các vương quốc trong vùng tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh),
thời Trịnh - Nguyễn buôn bán với Châu Âu tại các trung tâm như Thăng Long, Hội An.
Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802)
Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
Vào thế kỷ 16, Việt Nam có nội chiến và đến thế kỷ 17 thì bị chia đôi: chúa
Trịnh ở miền Bắc và chúa Nguyễn ở miền Nam. Lấy ranh giới là sông Gianh
thuộc châu Bố Chính, nay là phía bắc Quảng Bình. Trong hai thế kỷ 17 và 18,
các chúa Nguyễn ở miền Nam tiếp tục mở rộng đất nước về phương Nam.
Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này.
Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ
chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, Khmer và Thượng-Tây
Nguyên. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử;
người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn. Tổ
chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã

Gia Long (1802-1820) đóng đô ở Huế (trung tâm của đất nước). Ông cho xây dựng Huế tương tự như Tử Cấm Thành
ở Bắc Kinh. Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820-1841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và
phương pháp hành chính Trung Hoa. Nhưng cố gắng này về lâu dài đã gây ra hậu quả xấu, đó là đất nước kém phát
triển rồi dẫn đến mất nước
[cần dẫn nguồn]
. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường
Tộ) đã đặt ra yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đáp lại,
vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883) chọn chính sách đã lỗi thời là
coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản) và ngăn cản Thiên chúa giáo, tôn giáo từ phương Tây.
Những nhà truyền giáo người Pháp thực ra đã có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 17. Họ cũng hỗ trợ nhân lực và vật
lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người cải đạo sang
Thiên chúa giáo
[cần dẫn nguồn]
. Chính quyền thực sự lo ngại sự hình thành của một tôn giáo có tổ chức nên đã sát hại những
người theo đạo Thiên chúa giáo và san bằng nhiều xóm đạo.
Thời Pháp thuộc
Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài
Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ
thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm
chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở
miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt
và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối
bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng
cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.
Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho
đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức
phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức


Nhờ tải bản gốc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status