NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP - Pdf 62

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu được tốt hơn, cần hiểu rõ những khái niệm cơ
bản liên quan đến vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.1 Khái niệm và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh
nghiệp
1.1.1. Khái niệm:
a. Tài chính doanh nghiệp:
- Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn tài
chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường khác
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải chú
trọng đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt động này dựa trên mối quan hệ
giữa dòng tài chính và dự trữ tài chính nhằm thực hiện những mục tiêu mà doanh
nghiệp hướng tới.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau:
+ Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã
chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu
vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất.
+ Quản lý vốn và tài sản như thế nào để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả vốn
kinh doanh.
+ Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào để
thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính.
+ Quản lý các hoạt động tài chính ngắn và dài hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp.
Để hoạt động tài chính có hiệu quả doanh nghiệp cần đưa ra những quyết

1
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh, làm thế nào để doanh nghiệp có thể
đưa ra định hướng phát triển của mình và thực
hiện được những mục tiêu đề ra là câu hỏi mà các doanh nghiệp luôn đặt ra. Công
tác phân tích tài chính giúp trả lời câu hỏi đó, mức độ chính xác, hiệu quả trong
sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào thông tin đưa
ra từ phân tích tài chính. Bên cạnh đó, những kết luận được đưa ra từ quy trình phân
tích tài chính còn cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên, nhà đầu tư, ngân hàng,
người lao động nắm bắt được những thông tin phục vụ cho mục tiêu của mình. Chính
vì thế, phân tích tài chính tỏ ra là thực sự có ích và vô cùng cần thiết đặc biệt với sự
phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng, của thị trường vốn như hiện
nay. Nó không chỉ phục vụ cho doanh nghiệp mà còn cho tất cả các đối tượng quan
tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Nhà quản lý luôn đứng trước nhiều quyết định khác nhau, do đó mà quan tâm
đến kết quả phân tích thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều
góc độ khác nhau phù hợp với lĩnh vực và cương vị đưa ra quyết định để một khi
quyết định được đưa ra là tối ưu hơn cả. Đối với nhà quản trị phân tích tài chính
nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm
yếu của doanh nghiệp, đó là cơ sở định hướng các quyết định của Ban tổng giám đốc,
giám đốc tài chính, dự báo tài chính về kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các
hoạt động quản lý. Phân tích tài chính đối với nhà quản lý có phần thuận lợi được gọi
là phân tích tài chính nội bộ chứ không phải là phân tích tài chính ngoài doanh
nghiệp. Do vậy, các nhà quản lý dễ dàng nắm bắt, hiểu rõ về tình hình tài chính của
doanh nghiệp cũng như các hoạt động khác từ đó có quyết định đúng đắn. Khi đó,
phân tích tài chính phục vụ các mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn
đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi
ro tài chính trong doanh nghiệp...
- Hướng các quyết định của Ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình

thương mại. Vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu. Tài trợ
bằng tín dụng thương mại là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong
kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh
một cách lâu bền. Song việc tài trợ bằng hình thức đi nữa thì các chủ nợ đều quan
tâm rằng doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay vốn không thông qua việc đáp ứng yêu
cầu bảo đảm an toàn tín dụng, có tài
sản thế chấp, lãi suất vay và mức độ rủi ro mà các chủ nợ có thể chấp nhận được từ
tình hình tài chính thực tế của công ty thông qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
nhanh, khả năng thanh toán hiện hành đối với việc cho vay ngắn hạn.Việc hoàn trả
cả vốn lẫn lãi có đúng thời hạn không, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả vay
nợ từ những người cung cấp nào và khả năng trả nợ trong hiện tại và trong tương
lai. Từ đó, các chủ nợ mới quyết định có nên cho doanh nghiệp vay với cơ cấu vốn
như thế nào, thời hạn trong bao lâu...
1.1.2.4. Đối với người lao động
Với những người lao động là những người trực tiếp hưởng lương, lương là
nguồn thu nhập chính thể hiện giá trị sức lao động mà những người lao động bỏ ra,
là nguồn tiền giúp cho họ có thể tái sản xuất và nuôi sống gia đình. Bên cạnh đó, đối
với những doanh nghiệp cổ phần những người lao động cũng có thể trở thành
những cổ đông nếu họ có tiền mua và nắm giữ cổ phiếu. Do đó, họ quan tâm đến tình
hình tài chính doanh nghiệp thông qua chính sách phân phối thu nhập, các khoản
đóng góp của họ đối với doanh nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp ốm đau, thất nghiệp,
chính sách cổ tức, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Từ đó, người lao động có thể
yên tâm lao động và sáng tạo, sử dụng đồng vốn nhàn rỗi của mình để tăng thêm thu
nhập.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan nhà nước
Với tư cách là các cơ quan nhà nước có liên quan bao gồm công ty kiểm toán,
cơ quan thuế, cơ quan thống kê... là những cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát tình
hình hoạt động của doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính gửi lên. Đây là một trong
những đối tượng rất quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp, vì các cơ quan

thập đầy đủ, không chỉ qua các báo cáo tài chính mà còn qua nguồn thông tin được
cung cấp từ bên ngoài.
1.2.1.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp
Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất đa dạng một số thông tin
là bắt buộc và công khai, một số khác chỉ dành cho cổ đông. Trong số các nguồn
thông tin nội bộ thông tin kế toán là nguồn thông tin cơ bản nhất, được nhà phân
tích phân thu thập trước tiên. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đều được phản ánh trên các báo cáo tài chính một cách toàn diện và tổng hợp tình
hình tài sản, nguồn vốn qua bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, những luồng tiền vào ra coi như tiền, tình hình đầu tư, tài
trợ bằng tiền trong từng thời kỳ qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đó là những cơ sở
quan trọng để tiến hành phân tích hoạt động tài chính. Các chỉ
tiêu trên báo cáo tài chính được thể hiện dưới hình thức giá trị nên nhà phân tích có
thể định lượng tính toán kết hợp só liệu với nhau từ đó đưa ra dự đoán, dự báo và
đưa ra quyết định.
Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
a. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tổng hợp, phản ánh toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo kết cấu: vốn kinh doanh và nguồn
hình thành vốn kinh doanh. Kết cấu của bảng được chia thành 2 phần: Tài sản
và nguồn vốn.
Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại
thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần tài sản được phân thành: Tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn; Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu này thể hiện trách nhiệm pháp lý đối
với tài sản doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Phần nguồn vốn
được chia thành: Nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có mối liên hệ chặt chẽ với bảng cân đối kế
toán và bảng kết quả kinh doanh trong phân tích tài chính. Đây là cơ sở quan trọng
để nhà quản lý xây dựng kế hoạch quản lý tiền mặt.
d. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính tổng hợp được sử
dụng để giải thích và bổ sung các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, tình
hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo khác không thể
trình bày rõ ràng, cụ thể và chi tiết được.
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động
của doanh nghiệp; Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp áp dụng; Giải
thích và thuyết minh tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phương
hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới; Các kiến nghị của doanh nghiệp.
* Nói tóm lại, các báo cáo trên là nguồn tư liệu được dùng trong phân tích tài
chính doanh nghiệp vì các báo cáo trên quan hệ mật thiết với nhau, báo cáo này bổ
sung cho báo cáo kia, sự thay đổi chỉ tiêu của báo cáo này dẫn đến thay đổi chỉ tiêu
của các báo cáo khác, mỗi báo cáo là tiền đề, căn cứ tạo thành một
khối thông tin đầy đủ vừa khái quát vừa cụ thể .
1.2.1.2. Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo biểu
tài chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính
doanh nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá của quốc gia và quốc
tế, các thông tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh nghiệp.
Việc quyết định đều gắn với môi trường xung quanh. Có thể kể tới một số yếu tố
khách quan tác động tới doanh nghiệp và những thông tin liên quan đến các yếu tố
này cũng phải luôn được thường xuyên cập nhật:
- Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ
góp phần làm thay đổi phương thức sản xuất, góp phần làm thay đổi trong quản lý
doanh nghiệp dẫn tới các quyết định tài chính cũng phải thay đổi theo.
- Là chủ thể được tự do kinh doanh bình đẳng nhưng doanh nghiệp luôn là đối
tượng quản lý của các cơ quan nhà nước. Mọi hoạt động của doanh nghiệp bị điều

đoán tài chính doanh nghiệp trong tương lai, giúp các đối tượng đưa ra quyết định
kinh tế phù hợp với mục tiêu mong muốn.
1.2.2.1. Phương pháp đánh giá
a. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích
kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng, được áp dụng từ khâu đầu đến
khâu cuối của quá trình phân tích: từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích.
Khi sử dụng phương pháp so sánh cần chú ý đến điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh
và kỹ thuật so sánh.
Về điều kiện so sánh:
- Phải tồn tại ít nhất 2 đại lượng hoặc hai chỉ tiêu
- Các đại lượng, chỉ tiêu phải thống nhất về nội dung và phương pháp
tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
Tuy nhiên, người ta có thể so sánh giữa các đại lượng có quan hệ chặt chẽ với
nhau để hình thành chỉ tiêu nghiên cứu về một vấn đề nào đó.
Về tiêu thức so sánh: Tuỳ thuộc mục đích của cuộc phân tích, người ta
có thể lựa chọn một trong các tiêu thức sau đây:
- Để đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu đặt ra: tiến hành so sánh tài
liệu thực tế đạt được với tài liệu kế hoạch, dự đoán hoặc định mức.
- Để xác định xu hướng cũng như tốc độ phát triển: tiến hành so sánh
giữa số liệu thực tế kỳ này với thực tế kỳ trước.
- Để xác định vị trí cũng như sức mạnh của doanh nghiệp: tiến hành so sánh
giữa số liệu của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác cùng loại hình kinh
doanh hoặc giá trị trung bình của ngành kinh doanh.
Số liệu của một kỳ được chọn làm căn cứ so sánh được gọi là gốc so
sánh.
Về kỹ thuật so sánh: thường sử dụng các kỹ thuật so sánh sau đây:
- So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ
tiêu kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc( trị số của chỉ tiêu có thể đơn lẻ, có thể
là số bình quân, có thể là số điều chỉnh theo một tỷ lệ hay một hệ số nào đó). Kết quả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status