Kiểm soát ô nhiếm không khí - Pdf 70

- 218 -

CHƯƠNG VI
KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
6.1. KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TỪ
NGUỒN CỐ ĐỊNH
Kiểm soát ô nhiễm không khí của những nguồn cố đònh có thể được thực hiện bởi
hai phương pháp cơ bản là: kiểm soát ô nhiễm bằng biện pháp phát tán để pha loãng
vào khí quyển, thiết kế hệ thống x
ử lý
ô nhiễm nhằm làm giảm mức độ ô nhiễm tới
mức nhỏ nhất.
6.1.1. Kiểm soát bằng việc pha loãng vào khí quyển nhờ phát tán
Phương pháp tốt nhất để hạn chế ô nhiễm không khí là ngăn chặn ngay từ nguồn
phát thải ra. Tuy nhiên, sử dụng ống khói cũng là một biện pháp làm giảm nồng độ ô
nhiễm không khí tại lớp sát mặt đất, bằng cách
phát tán và pha lỗng

chúng
b
ằng chiều
cao và đường kính ống khói hợp lý.
Biện pháp này ở một vài mức độ
nào đó
cũng có
thể cho
phép
giữ được cho chất lượng không khí như mong muốn. Bầu khí quyển có
khả năng rất lớn trong việc phát tán, pha loãng và làm thay đổi tính chất của phần lớn
các vật chất trong khí quyển mà con người không thể làm được.
Tác động trực tiếp của các ống khói cao là làm cho nồng độ các chất ô nhiễm ở

giữ lại ho
ặc tách chúng ra khỏi
dòng khí
các chất ô nhiễm, trừ khử chúng hoặc chuyển đổi chúng sang dạng khác làm
chúng không còn tính độc, trước khi thải chúng vào môi trường. Sau đây là một vài
phương pháp kiểm soát nguồn.
a. Chuyển nguồn sang vò trí khác
Đây là một phương pháp hạn chế ô nhiễm ngay tại vò trí cũ của nguồn. Trong quá
trình nghiên cứu khí hậu học để quy hoạch và xác đònh một khu dân cư,
đơ
th
ị hay khu
cơng nghiệp
đôi khi cũng xác đònh được một vò trí tốt h
ơn
đáp ứng được nhiều yêu cầu
để đặt một nhà máy công nghiệp, cụ thể là v
ị trí đặc
ống thải khói. Bởi vậy việc di
chuyển nguồn thải ra xa khu dân cư sinh sống là điều c
ần thiết
, cũng có thể là tại vò trí
mới sẽ có thuận lợi hơn về gió và cho phép một nồng độ chất ô nhiễm không khí cao
hơn là ở vò trí cũ.
b. Ngưng hoạt động nguồn
Một nguồn gây ô nhiễm không khí có thể được ngưng hoạt động một thời gian,
khi mà nồng độ chất ô nhiễm đạt tới mức độ có thể đe dọa tới sức khỏe cộng đồng.
Các cơ quan bảo vệ môi trường có trách nhiệm thống kê, giám sát các nguồn ô
nhiễm; khi có sự thay đổi thời tiết dự báo có thể xảy ra thảm hoạ ô nhiễm thì cơ quan
này phải có trách nhiệm ngưng ngay hoạt động một số nguồn; hoặc khi một nguồn

sót trong vận hành, có thể là đã đưa quá nhiều không khí vào trong lò đốt. Có trường
hợp quạt thải lâu ngày không được sửa chữa, bảo dưỡng làm cho sức hút kém, là
nguyên nhân làm cho lò đốt bò thiếu không khí cho quá trình cháy, khói lửa nằm lại
trong lò rồi lại tràn ra khu vực xung quanh lò mà không thoát ra ngoài xa được.
Bởi vậy cần phải tổ chức huấn luyện, hướng dẫn vận hành sử dụng, yêu cầu
những người vận hành lò đốt phải có giấy chứng nhận đã học qua khóa vận hành và
sử dụng nhiên liệu.
- 221 -

f. Thiết bò và kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm không khí
Có thể áp dụng như một biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Việc lắp đặt và vận hành
một hệ thống thiết bò kiểm soát ô nhiễm không khí nhằm mục đích làm biến đổi cấu
trúc, làm ẩm, làm giảm hiệu quả tác động của chất ô nhiễm hoặc làm giảm n
ồng
độ
của chất ô nhiễm.
Những kỹ thuật, thiết bò đó thường rất cần thiết, dùng kết hợp với các biện pháp
khác để kiểm soát ô nhiễm khí, các biện pháp đó ta đã nói tới trong chương trước
nhằm hạn chế mức độ ô nhiễm đạt tới
các tiêu
chu
ẩn cho phép của nhà nước đã ban
hành
.
Hệ thống thiết bò kiểm soát ô nhiễm nhìn chung, được thiết kế xử lý cho cả khí
độc
và bụi, nhưng cũng chỉ có một vài loại thiết bò có hiệu quả cao đối với cả hai loại
khí
độc
và bụi. Một vài loại thiết bò được thiết kế để xử lý từng loại chất

cho việc hạn chế độ phát thải của các khí cơ bản, nhưng đôi khi nó cũng có tác dụng
làm hạn chế màu sắc khí thải cũng như hạn chế lượng bụi sinh ra. Trong khuôn khổ
cuốn sách này tác giả chỉ giới thiệu nguyên lý làm việc của một số thiết bò xử lý khí
thải mà không đi sâu vào việc tính toán và thiết kế. Các nội dung này sẽ được biên
so

n trong một giáo trình khác – Giáo trình kỹ thuật xử lý ô nhiễm không khí.
a. Hấp thụ khí
- 222 -

Nguyên tắc cơ bản của việc hấp thụ khí là tạo ra một sự tiếp xúc giữa
dòng
khí
ch
ứa các chất ơ nhiễm

các
h
ạt dung dịch hấp thụ thường được phun ra với kích thước
nhỏ và mật độ lớn
. Các ch
ất ơ nhiễm
được tách ra bằng việc hoà tan trong chất lỏng
hấp thụ hoặc xảy ra phản ứng hoá học giữa chất ô nhiễm và dung d
ịch
hấp thụ. Trong
kỹ thuật hấp thu,
dòng
khí th
ường được cho đi ngược chiều với các hạt dung dịch

là hoá chất dùng để tách chất ô nhiễm. Ví dụ: sulfur dioxit có thể chuyển sang màu
xanh nhạt do kết hợp với nước và oxit canxi (CaO), cụ thể là do nó kết hợp với
hydroxyt canxi Ca(OH)
2
, tạo ra dạng muối sulfat canxi (CaSO
4
). Chính phản ứng này
có tác dụng làm tẩy sạch SO
2
ra khỏi dòng khí.
Nếu chỉ tách khí ra do hòa tan mà không xảy ra phản ứng hóa học, chất hấp thụ
này được coi như là chất hấp thụ không phản ứng. Nước hoặc dầu cacbon nặng là
nh

ng ví dụ cho dung dòch hấp thụ không phản ứng.
Loại dung dòch hấp thụ đó không thể dùng lại được sau khi đã dùng hấp th

,
nghóa là sau hấp thụ phải bỏ đi, do vậy gọi chúng là dung dòch hấp thụ không tái sinh.
Nước là một ví dụ. Với những loại dung dòch hấp thụ mà thu được lượng khí ô nhiễm
nhờ một tác động nào đó như thay đổi nhiệt độ dung dòch, thay đổi áp suất … thì gọi là
dung dòch hấp thụ có thể tái sinh được. Dung dòch hấp thụ có thể tái sinh (có thể sử
dụng lại) là những dung dòch hóa chất đắt tiền hoặc là những chất xúc tác, có thể là
hóa chất dùng để trung hòa chất ô nhiễm để có thể chuyển hóa chúng thành dạng rắn
- 223 -

hoặc lỏng rồi tách chúng ra hoặc là những chất đưa thêm vào quy trình sản xuất để
tập trung chất ô nhiễm. Một ví dụ của dung dòch hấp thụ có thể tái sinh là tetraclorua
cacbon (CCl
4

Q
trình ti
ếp xúc giữa dòng khí và
dung dịch hấp thụ là tiếp xúc dạng màng.
Dòng dung dòch hấp thụ bám trên bề mặt của
lớp vật liệu đệm một lớp mỏng, bởi vậy tạo ra một bề mặt tiếp xúc lớn giữa dung dòch
và khí. Thông thường dòng dung dòch hấp thụ chảy qua tháp là xác đònh được, chúng
được chảy từng giọt một từ trên đỉnh tháp xuống chân tháp, trong khi dòng khí thì đi từ
chân tháp lên đỉnh xuyên qua lớp vật liệu đệm. Tháp hấp thụ đệm cũng có tác dụng
để tách ra (hạt bụi nước kích thước khoảng 10μm hoặc nhỏ hơn, do ngưng hơi các
phân tử từ trạng thái hơi). Nếu hấp thụ khí, hơi có tính ăn mòn thì vật liệu đệm phải
có tính chống lại tính ăn mòn. Tháp đệm khi vận hành thường làm tăng trở lực cục bộ,
bởi vậy phải dùng một quạt hút thích hợp. M
ột trong các nhược điểm của tháp đệm là
hay gây hiện tượng “tắc nghẽn” và “sặc” thiết bị do bụi hoặc các chất kết tủa do các phản
ứng phụ giữa các chất ơ nhiễm và dung dịch hấp thụ sinh ra, từ đó làm cho hiệu suất xử
lý thường khơng ổn định. Do vậy việc tính tốn thiết kế thiết bị này khá phức tạp và cần
thiết phải khảo sát kỹ thành phần và b
ản chất của khí thải. Bên cạnh đó việc vệ sinh lớp
vật liệu đệm cũng cần phải tiến hành thường xun để góp phần khắc phục các nhược
điểm trên.
2/ Tháp đóa (Hình 6.2)

Hình 6.2
. Tháp đóa
- 225 -

Tháp đóa có dạng hình trụ đứng thẳng, bên trong có chứa một số đóa lớn hình tròn
có đục lỗ.
Dòng

ực tiếp
giữa các chất ô nhiễm và
các
h
ạt dung dịch hấp thụ được phun ra
dưới dạng các hạt nhỏ và mật độ lớn
. Dung dòch hấp thụ được phun ng
ược chiều với
dòng khí bốc lên, tạo ra một sự hỗn loạn trong dòng khí. Trong trường hợp đặc biệt
khi muốn hòa tan với tốc độ cao các thành phần trong dòng khí, ta tác dụng một lực ly
tâm lên dòng khí, đồng thời phun dung dòch hấp thụ vào trong dòng khí tạo ra một tốc
độ tiếp xúc giữa dòng khí và chất lỏng lớn nhất có thể được. Tháp phun còn có tác
động làm tách ra những hạt chất lỏng có kích thước lớn hơn 10 μm và tháp cũng có
thể dùng để xử lý bụi.
Ưu điểm của loại thiết bị này là cấu tạo và vận hành đơn giản, gia
thành thấp hơn tháp đệm và tháp đĩa, hiệu suất khá ổn định nhưng thường rất thấp và tiêu
hao dung dịch hấp thụ lơn hơn các loại thiết bị trên.

- 226 - Hình 6.3
. Tháp phun (
thùng
r
ửa khí rỗng)

4/ Lọc bằng phun chất lỏng (Hình 6.4)
Thiết bò g
ồm hai đơn ngun

dòch luôn phải giữ thấp hơn 100
o
C, nhằm giữ cho dung dòch hấp thụ luôn được giữ ở
trạng thái lỏng. M
ặt khác ở nhiệt độ khí thải cao hiệu suất hấp thụ rất kém, do đó làm
nguội khí thải trước khi đưa vào tháp hấp thụ là rất cần thiết. Dung dịch hấp thụ cần được
bổ sung thường xun trong q trình xử lý nếu có tuần hồn dung dịch.
Dung dòch hấp
thụ sau khi đã hấp thụ quá nhiều thì phải thay th
ế
hoặc phải
hồn ngun

để
tách chất
ô nhiễm, đề phòng trường hợp khi chất ô nhiễm trong dung dòch đạt tới trạng thái quá
bão hòa chúng sẽ được chuyển sang dạng chất ô nhiễm khác.
b. Hấp phụ khí
Hấp thụ khí như đã nói trước đây, là dựa trên cơ sở khí phản ứng với chất lỏng
hấp thụ. Nó được thực hiện khi mà các phần tử hoặc các nguyên tử được tách ra do cơ
chế hấp thụ vật lý, hoá học hoặc đồng thời xảy ra cả hai quá trình. Hấp phụ khí


dựa trên cơ sở các khí bò các chất rắn hấp phụ. Nó được thực hiện khi các phân tử
hoặc nguyên tử cần hấp phụ được tập trung chỉ ở trên bề mặt của chất rắn hoặc trong
các mao quản của chất rắn. Hấp phụ khí dựa trên nguyên tắc dòng khí tiếp xúc trực
tiếp khi chuyển động xuyên qua lớp chất rắn hấp phụ chứa trong một thiết b
ị.
Chất
hấp phụ có thể là những chất mà có tính chất lý học hoặc hóa học tự nhiên, ví dụ than

phần tử, tạo ra một sự tác động lẫn nhau trên bề mặt phân tử các bon không phân cực.
Kết quả là một lượng lớn các phần tử hữu cơ phân cực kém bò hấp phụ bởi cacbon.
Than hoạt tính là loại được dùng thông dụng nhất để hấp phụ các hơi chất hữu cơ hòa
tan (than hoạt tính hoặc than củi được tạo ra từ việc đốt thiếu khí ở nhiệt độ cao, như
vậy phần tử các bon chỉ cháy theo cách tạo ra cấu trúc rỗng trong phân tử và tạo nên
một diện tích bề mặt rộng lớn). Than hoạt tính là chất được sử dụng làm chất hấp phụ
nhiều nhất. Ngoài ra có thể kể đến một số loại chất hấp phụ khác như silica gen …
Thiết bò hấp phụ
Trên hình 6.6 là thiết bò mà bên trong nó có chứa những chất rắn hấp phụ. Một
vài loại thiết bò hấp phụ được giới thiệu sơ lược sau đây.
1/ Thiết bò với lớp hấp phụ mỏng
Dùng than củi hoạt tính làm chất hấp phụ theo lớp mỏng (độ dày khoảng 12 – 15
cm) được giữ lại bởi một lực cơ học, bởi vì khả năng chống lại lực đẩy của dòng khí
rất yếu. Chất hấp phụ có thể được đựng trên những đóa dạng lưới hoặc là những phần
tử cứng. Thiết bò hấp phụ mỏng thường được áp dụng để lọc sạch lượng dưỡng khí cấp
vào cho những căn hộ. Không khí trong khí quyển, mặc dù lượng chất ô nhiễm thải
vào là rất lớn, nhưng tính pha loãng của khí quyển cũng rất tốt, bởi vậy nồng độ chất
ô nhiễm trong khí quyển thường là rất nhỏ (dạng vết). Tốc độ hấp phụ của loại thiết
bò này nhanh, lượng chất ô nhiễm không thể nhanh chóng tập trung trên bề mặt chất
hấp phụ, đủ để làm giảm hiệu quả hấp phụ của lớp hấp phụ mỏng.
2/ Thiết bò với lớp hấp phụ dày
- 230 -

Sử dụng than củi làm chất hấp phụ với độ dày lớn hơn ½ inch (khoảng 12 cm),
với đôï dày này sẽ đủ sức giữ được một khoảng trống tối thiểu và thường làm đơn giản
hơn lớp hấp phụ mỏng, dễ dàng xác đònh lượng than hoạt tính sử dụng. Thiết bò hấp
phụ với lớp dày sẽ được sử dụng ở những nơi có yêu cầu sử dụng được trong thời gian
dài, ít phải thay đổi lớp hấp phụ. Ví dụ dùng để lọc sạch các khí thải từ các ống thải
của các lò sưởi dùng trong nhà, mức độ tập trung chất ô nhiễm cao. Việc hấp phụ chất
ô nhiễm trên bề mặt lớp hấp phụ là quá nhanh so với hấp phụ lớp mỏng, do vậy

các chất hữu cơ khó phân hủy, chúng thường có cấu tạo mạch vòng khá phức tạp ví dụ
dioxyn, furan, các hợp chất dung môi từ các quá trình sơn, … Để xử lý các chất ô
nhiễm này, phương pháp thiêu đốt là thích hợp nhất.
Để cho quá trình cháy được hoàn toàn, phải có đủ lượng ôxy cung cấp cho quá
trình cháy, nhiệt độ, sự xáo trộn, thời gian cháy phù hợp.
+ Ôxy: là yếu tố rất cần cho quá trình cháy xảy ra. Những sản phẩm cuối cùng
của quá trình cháy phụ thuộc vào việc cung cấp ôxy. Ví dụ khi metal cháy mà không
đủ ôxy chúng sẽ tạo ra dạng cacbon rắn và dạng bụi khói và bồ hóng. Nếu đủ ôxy,
cacbon sẽ cháy hoàn toàn và tạo ra cacbon dioxit.
+ Nhiệt độ cháy: phải luôn luôn giữ ở nhiệt độ bốc cháy (nhiệt độ để gia nhiệt
cho quá trình cháy phải lớn hơn nhiệt độ bốc cháy, đủ để bù vào lượng nhiệt mất mát
do tổn thất nhiệt ra xung quanh). Nhiệt độ cháy của quá trình cháy vật chất thường
theo một khoảng rộng. Ví dụ: sulfur 470
o
F, metan 1.170 - 1380
o
F, CO 1.130 - 1.215
o
F. Lớp cách nhiệt trong lò đốt được thiết kế để chống thất thoát nhiệt ra bên ngoài.
Một ống khói có chiều cao và đường kính ống khói thích hợp sẽ giúp cho nhiệt độ khí
trong ống khói cao hơn nhiệt độ không khí xung quanh, tạo điều kiện cho việc phát
tán vào khí quyển đạt tới mức cao nhất vào khí quyển.
+ Sự xáo trộn: nhằm tạo cho hỗn hợp ôxy và và dòng khí chứa chất ô nhiễm được
đồng đều trong suốt thời gian cháy. Có thể dùng vách ngăn hoặc vòi phun để tạo ra
độ khuấy động cần thiết. Hình dạng và chiều cao của ống khói của cũng là yếu tố tạo
ra sự khuấy động giúp cho pha loãng không khí.
- 232 -

+ Thời gian cháy: Hiệu quả của quá trình cháy phụ thuộc vào kích cỡ thích hợp
của buồng cháy. Tăng độ cao ống khói, tăng thời gian cháy sẽ hạn chế được lượng

thải sinh ra. Do vậy lò đốt có thể được thiết kế dạng lò một hoặc hai cấp.
Với các lò đốt sử dụng để đốt chất thải nguy hại ở buồng đốt sơ cấp các chất thải
nguy hại sẽ đốt cháy các chất thải rắn nguy hại và sản phẩm của chúng là bụi, các
loại khí gas có thể cháy được. Ở buồng đốt sơ cấp thường áp dụng quá trình đốt nhiệt
phân với nhiệt độ kho

ng 450 – 600
0
C. Dòng khí chứa các khí gas sẽ được thiêu đốt ở
buồng đốt thứ cấp với nhiệt độ trong khoảng 1.000 – 1.200
0
C để phân hủy hết các
chất ô nhiễm cần xử lý. Thời gian lưu khí trong buồng thứ cấp tối thiểu là 2 giây.
Hình 6.7 giới thiệu sơ đồ đơn giản của một buồng đốt khí thải, thực chất đây là quá
trình ôxy hóa nhờ tác dụng của nhiệt.

Trích đoạn KIỂM SỐ TƠ NHIỄM KHƠNG KHÍ TỪ NGUỒN DI ĐỘNG
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status