Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý ở Công ty Điện lực Hà Nội” - Pdf 84

Luận văn tốt nghiệp
BỘ GIA
́
O DU
̣
C VA
̀
ĐA
̀
O TA
̣
O
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ...
KHOA ...

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện bộ máy quản lý ở Công ty
Điện lực Hà Nội”
1
Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
Là một doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội, để
giải quyết hài hoà được các lợi ích, cũng như các mục tiêu của mình, công ty Điện lực Hà Nội
đã nhiều lần tiến hành cải tiến cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai
đoạn, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Tuy nhiên việc cải tiến, chấn chỉnh đó
chưa mang tính khoa học và chiến lược, vẫn còn những bất hợp lý và không phù hợp. .............3
CHƯƠNG 1....................................................................................................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP............................6
CHƯƠNG 2:.................................................................................................................................36

Trong thời gian từ năm 2001-2010, Tổng công ty Điện lực Việt nam đã
xây dựng cho mình những mục tiêu cụ thể mà mục tiêu trước tiên là “Tiếp tục
củng cố và hoàn thiện các bộ phận quản lý của Tổng Công ty và các đơn vị
thành viên để đảm bảo nhanh, đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh và đầu
tư xây dựng ngày càng tốt hơn”. Trước tình hình đó, Công ty Điện lực Hà Nội
đã xây dựng cho mình chiến lược trong thời gian tới là : “sẽ tiến hành việc
củng cố và phát triển lưới điện thành phố Hà Nội theo hướng hiện đại hoá, tổ
chức sản xuất theo hướng tập trung hiện đại phân cấp mạnh xuống các xí
nghiệp, đơn vị cơ sở, ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin và các giải
3
Luận văn tốt nghiệp
pháp mới vào khâu quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng”, nên việc
cải tiến lại bộ máy quản lý của công ty đang là nhu cầu cần giải quyết.
Để đáp ứng được chiến lược kinh doanh trong thời gian tới và khắc phục
những tồn tại của bộ máy quản lý hiện hành, việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý là tất yếu khách quan và là nhu cầu cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức bộ máy quản lý, cũng
như xuất phát từ nhu cầu thực tế, tôi xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện bộ máy quản lý ở Công ty Điện lực Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức bộ máy quản lý của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích đánh giá thực trạng bộ máy quản lý của công ty Điện lực Hà Nội.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Nghiên cứu bộ máy quản lý của Công ty Điện lực Hà Nội, trong
đó tập trung vào nghiên cứu hệ thống chức năng nhiệm vụ; mô hình tổ chức
bộ máy quản lý; cơ chế vận hành của bộ máy quản lý và tổ chức lao động bộ
máy quản lý.
- Phạm vi: Luận văn tập trung nghiên cứu về bộ máy quản lý của cơ quan

NGHIỆP.
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Quản lý và quản lý doanh nghiệp.
* Khái niệm:
Hiện nay có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý. Có quan niệm cho
rằng quản lý là hành chính, là cai trị. Có quan niệm khác lại cho rằng quản lý là
điều hành, điều khiển, chỉ huy. Các cách nói này không có gì khác nhau về nội
dung mà chỉ khác nhau ở chỗ dùng thuật ngữ.
Quản lý được hiểu theo hai góc độ: Một là góc độ tổng hợp mang tính
chính trị – xã hội; hai là góc độ mang tính thiết thực. Cả hai góc độ này đều có
cơ sở khoa học và thực tế.
Quản lý theo góc độ chính trị, xã hội là sự kết hợp giữa tri thức và lao động.
Lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ mông muội đến thời đại văn minh hiện đại
ngày nay cho ta thấy rõ trong sự phát triển đó có 3 yếu tố được nổi lên rõ nét là
tri thức, lao động và quản lý. Trong ba yếu tố này, quản lý là sự kết hợp giữa tri
thức và lao động. Nếu kết hợp tốt thì xã hội phát triển tốt đẹp. Nếu sự kết hợp
không tốt thì sự phát triển sẽ chậm lại hoặc rối ren. Sự kết hợp đó được biểu
hiện trước hết ở cơ chế quản lý, ở chế độ, chính sách, biện pháp quản lý và ở
nhiều khía cạnh tâm lý xã hội, nhưng tựu trung lại là quản lý phải biết tác động
bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi, đem hết
năng lực và trí tuệ của mình để sáng tạo ra lợi ích cho mình, cho Nhà nước và
cho xã hội.
Theo góc độ hành động, góc độ quy trình công nghệ của tác động thì quản
lý là điều khiển. Theo khái niệm này quản lý có ba loại hình. Các loại hình này
đều có xuất phát điểm giống nhau là do con người điều khiển nhưng khác nhau
về đối tượng.
6
Luận văn tốt nghiệp
- Loại hình thứ nhất là việc con người điều khiển các vật hữu sinh không
phải con người để bắt chunsg phải thực hiện theo ý chí của người điều khiển.

Từ định nghĩa về quản lý, có thể dễ dàng suy ra được khái niệm về quản lý
doanh nghiệp: “Quản lý doanh nghiệp là quá trình tác động một cách có hệ
thống, có tổ chức, có hướng đích của người đại diện doanh nghiệp lên tập thể
những người lao động trong doanh nghiệp, nhằm sử dụng mọi tiềm năng và cơ
hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lê xã hội”.
* Phân biệt quản lý và lãnh đạo:
Đây là hai thuật ngữ sử dụng cho các hệ thống có con người ở trong, chúng
không đồng nhất và được giải thích tuỳ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu: cả hai
thuật ngữ đều hàm ý tác động và điều khiển, nhưng khác nhau về mức độ và
phương pháp tiến hành.
Lãnh đạo (hướng dẫn) là quá trình định hướng dài hạn cho chuỗi các tác
động của chủ thể quản lý.
Quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên đối tượng bị
quản lý để thực hiện các định hướng tác động dài hạn.
Lãnh đạo là quản lý những mục tiêu rộng hơn, xa hơn, khái quát hơn; còn
quản lý là lãnh đạo trong trường hợp mục tiêu cụ thể hơn và chuẩn xác hơn.
Người lãnh đạo là người tạo ra một viễn cảnh để có thể tập hợp được mọi
người; còn người quản lý là người tập hợp được nhân tài vật lực để biến viễn
cảnh thành hiện thực. Cũng có lúc người quản lý cần phải làm người lãnh đạo
và ngựơc lại.
Việc lãnh đạo và quản lý do chủ thể quản lý tiến hành. Chủ thể có thể là
duy nhất (một phân hệ, một lực lượng, một người, v.v…) mà cũng có thể là
không duy nhất (gồm từ hai phân hệ trở lên, v.v…), nhưng để bảo đảm cho quá
trình quản lý có hiệu quả cao, việc lãnh đạo và quản lý phải thống nhất hữu cơ
với nhau, hoà nhập vào nhau. Điều này trong thực tế không phải lúc nào cũng
được thực hiện một cách trót lọt và trọn vẹn.
1.1.2. Sự cần thiết phải có hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thực tiễn của con người
được biểu hiện thành hai mặt tự nhiên và xã hội. Trong quá trình tác động vào

sống xã hội loài người. Đặc biệt trong hoạt động sản xuất, do tính chất phức tạp
9
Luận văn tốt nghiệp
và đa dạng trong các quan hệ con người với tự nhiên, giữa người với người, tính
tổ chức và sự xuất hiện tổ chức trong hoạt động này càng đặc biệt quan trọng.
Sự ra đời của các hình thức tổ chức trong hoạt động sản xuất là một đòi hỏi
tất yếu khách quan. Song sự xuất hiện các hình thức tổ chức bao giờ cũng gắn
với một chức năng nhất định, nhằm vào một mục tiêu nhất định.
Tất nhiên, thực tế tổ chức chỉ có thể phát huy thực tế sức mạnh của nó trên
cơ sở có sự quản lý điều hành thống nhất. Vì vậy, sự hợp tác của những lao động
có ý thức tất yếu đòi hỏi phải có sự điều khiển, giống như “một giàn nhạc phải có
nhạc trưởng”. Tính tất yếu của quản lý được bắt nguồn từ chính ý nghĩa đó.
Thực chất của quản lý doanh nghiệp là quản lý con người – yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất – trong quá trình sử dụng tư liệu lao động tác động lên
đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quản lý chỉ có thể đạt
hiệu quả cao khi con người giỏi nghề nào được làm nghề đó, được tạo điều kiện
để phát huy đầy đủ tính chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Khi quy mô sản xuất càng mở rộng, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển
ngày càng cao, thì công tác quản lý càng phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải
không ngừng được nâng cao cả về năng lực và trình độ.
1.2. Nội dung tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
Quản lý là hoạt động phức tạp nhiều mặt của con người. Quản lý chỉ được
thực hiện trong một hệ thống quản lý cụ thể. Hệ thống quản lý, đó chính là bộ
máy quản lý. Bộ máy quản lý là tổng hợp các bộ phận (đơn vị, cá nhân) khác
nhau có mối quan hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và
có những trách nhiệm quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những
khâu khác nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ
mục đích chung xác định của hệ thống. Bộ máy quản lý là hình thức phân công
nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý, có tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động
của hệ thống. Bộ máy quản lý, một mặt phản ánh cơ cấu trách nhiệm của mỗi

1.2.1.1. Các chức năng quản lý.
Khái niệm “chức năng quản lý” gắn liền với sự xuất hiện và tiến bộ của
phân công – hợp tác lao động trong một quá trình sản xuất của một tập thể
người lao động.
11
Luận văn tốt nghiệp
Hoạt động quản trị đã ra đời từ khi nền sản xuất là thủ công cá thể. Nhưng
ngay cả đến khi con người đã tổ chức các nhà máy khổng lồ, đạt được các tiến
bộ to lớn về kỹ thuật như chế tạo đầu máy xe lửa, sử dụng điện năng … thì khoa
học quản lý vẫn chưa được quan tâm. Phải đến đầu thế kỷ 20, những nghiên cứu
về khoa học quản lý mới đưa ra được một cách có hệ thống cách phân loại các
chức năng quản trị. Bản thân các cách phân loại của các nhà khoa học hàng đầu
theo thời gian cũng khác nhau và họ đưa ra nhiều đề xuất về nội dung và phân
loại các chức năng quản lý. Người đầu tiên cũng như thành công nhất trong lĩnh
vực này là Henry Fayol. Trong cuốn sách quản trị công nghiệp và tổng quát viết
năm 1916, Fayol chia quá trình quản trị của doanh nghiệp thành 5 chức năng và
được mệnh danh là “những yếu tố Fayol”. Đó là:
Chức năng dự kiến (hoạch định): Thường được coi là chức năng đầu tiên
trong tiến trình quản trị. Đó là việc dự đoán trước có cơ sở khoa học, sự phát
triển có thể xảy ra của các quá trình, các hiện tượng, xây dựng thành chương
trình hành động (một kế hoạch nhất định) nhằm xác định rõ: sản xuất cái gì? sản
xuất bằng cách nào? bán cho ai? với nguồn tài chính nào? Như vậy hoạch định
là việc xác định các mục tiêu và mục đích mà tổ chức phải hoàn thành trong
tương lai và quyết định cách thức để đạt được mục tiêu đó.
Chức năng tổ chức: Tổ chức là quá trình tạo ra một cơ cấu các mối quan
hệ giữa các thành viên, thông qua đó cho phép họ thực hiện các kế hoạch và
hoàn thành các mục tiêu của tổ chức. Chức năng này bao gồm việc thiết lập một
cấu trúc của tổ chức, trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động của doanh
nghiệp như vốn, máy móc, thiết bị, lao động, nguyên vật liệu, …kết hợp, liên
kết các yếu tố sản xuất, các bộ phận riêng rẽ trong doanh nghiệp với nhau thành

Ở nước ta, trong các quá trình quản lý, người ta đã sử dụng các hệ thống
phân loại các chức năng quản lý nêu trên. Có thể khái quát lại thành một số
chức năng cơ bản sau: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá.
Tất cả các chức năng quản lý trên tác động qua lại với nhau và quy định lẫn
nhau. Sự phân loại một cách khoa học các chức năng quản lý cho phép thực
hiện được ở phạm vi rộng, sự phân công lao động một cách hợp lý dựa vào việc
chia nhỏ quá trình quản lý thành những hành động, thao tác quản lý. Sự phân
13
Luận văn tốt nghiệp
loại như thế còn giúp cho việc tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá các quá trình
quản lý, tạo điều kiện áp dụng những kinh nghiệm tiên tiến trong lao động quản
lý, tạo điều kiện để đưa các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào thực tiễn quản lý.
1.2.1.2. Lĩnh vực quản lý.
Đây là sự phân loại chức năng quản lý theo nội dung quản lý. Lĩnh vực
quản lý trong doanh nghiệp được hiểu như các hoạt động quản lý khi được sắp
xếp trong một bộ phận nào đó. Ở các bộ phận này có người chỉ huy và liên quan
đến việc ra các quyết định quản trị.
Lĩnh vực quản lý được phân định phụ thuộc vào nhiều yếu tố: truyền thống
quản trị, các yếu tố xã hội và cơ chế kinh tế, quy mô cũng như đặc điểm kinh tế
– kỹ thuật của doanh nghiệp. Nó gắn liền với mỗi quốc gia, mỗi vùng cụ thể và
sự tiến bộ về nhận thức khoa học quản lý.
C thể nói lĩnh vực quản lý chính là sự phân chia chức năng quản lý theo nội
dung tác động.
Về cơ bản, các lĩnh vực quản lý trong doanh nghiệp gồm:
* Lĩnh vực vật tư: Nhiệm vụ của cung ứng vật tư là bảo đảm cung cấp đầy đủ
và đồng bộ về số lượng, chủng loại, đúng chất lượng, đúng kỳ hạn, đúng địa
điểm với chi phí ít nhất. Nội dung công việc cung ứng vật tư bao gồm: Phát hiện
nhu cầu vật tư, tổ chức mua sắm vật tư, tổ chức cung cấp vật tư, tổ chức dự trữ
và bảo quan vật tư. …..
Người ta thường sử dụng phương pháp quy hoạch tuyến tính, phương pháp

thuật, tham gia và trực tiếp xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý máy móc,
thiết bị, nghiên cứu phát triển kỹ thuật, ứng dụng phương pháp công nghệ mới,
thiết kế sản phẩm mới, đề ra chiến lược công nghệ, xây dựng các định mức tiêu
hao thiết bị, năng lượng, vật tư, ..
* Lĩnh vực tài chính – kế toán:
Lĩnh vực tài chính gồm các nội dung sau: tạo vốn, sử dụng vốn, quản lý
vốn (chủ yếu là quản lý sự lưu thông, thanh toán và các quan hệ tín dụng).
Lính vực kế toán gồm các nội dung: kế toán sổ sách, tính toán chi phí – kết
quả, xây dựng các bảng cân đối, tính toán lỗ lãi, thẩm định kế hoạch, thống kê,
kiểm tra việc tính toán, bảo hiểm, thuế.
15
Luận văn tốt nghiệp
* Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển:
Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển gồm các nhiệm vụ sau: thực hiện các
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
ứng dụng và thẩm định hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng.
* Lĩnh vực tổ chức và thông tin:
Gồm các nhiệm vụ sau:
- Lĩnh vực tổ chức: Tổ chức các sdự án, phát triển và cải tiến bộ máy tổ
chức cho doanh nghiệp, tổ chức tiến trình hoạt động toàn bộ doanh nghiệp.
- Lĩnh vực thông tin: Xây dựng kế hoạch về các thông tin liên quan cho
doanh nghệp, chọn lọc và xử lý các thông tin, kiểm tra thông tin và giám sát
thông tin.
* Lĩnh vực hành chính pháp chế và các dịch vụ chung:
Bao gồm: thực hiện các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp,
tổ chức các hoạt động quần chúng trong doanh nghiệp, các hoạt động hành
chính và phúc lợi doanh nghiệp.
Sự phân chia trên đây chỉ mang tính khái quát, trên thực tế quản trị, các
lĩnh vực được tiếp tục chia nhỏ nữa cho đến các công việc, nhiệm vụ quản trị cụ
thể; mặt khác có bao nhiêu lĩnh vực quản trị còn phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế

trị A
(ij)
sau:
Chức
năng
Lĩnh vực
Dự kiến
(DK)
Tổ chức
(TC)
Phối hợp
(PH)
Chỉ huy
(CH)
Kiểm tra
(KT)
Vật tư
Sản xuất
Marketing
-
-
-
-
-
H.chíhh, p. chế
DK vật tư
DK sản
xuất
TC vật tư
TC sản

trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện các chức
năng quản trị và phục vụ mục đích chung đã xác định của doanh nghiệp.
Như vậy, cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp được hiểu là các bộ phận
cấu thành của doanh nghiệp, nói cách khác doanh nghiệp đó bao gồm những bộ
phận, những đơn vị nào, nhiệm vụ của từng bộ phận và các quan hệ giữa các bộ
phận của doanh nghiệp, cơ chế điều hành phối hợp trong doanh nghiệp.
Giữa cơ cấu tổ chức quản trị và cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp có mối
quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Cơ sở của cơ cấu tổ chức quản trị trước hết
là bản thân cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp. Đây cũng là mối quan hệ giữa
chủ thể và đối tượng quản lý.
18
Luận văn tốt nghiệp
Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức quản trị có tính độc lập tương đối vì nó phải
phản ánh được lao động quản lý rất đa dạng. Phải bảo đảm thực hiện những
chức năng quản lý phức tạp nhằm thực hiện mục tiêu quản trị đã quy định.
Cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp hình thành bởi các bộ phận quản trị
và các cấp quản trị.
Bộ phận quản trị là một đơn vị riêng biệt, có những chức năng quản lý nhất
định, ví dụ phòng Kế hoạch, phòng Kiểm tra kỹ thuật, phòng Marketing, …
Cấp quản trị là sự thống nhất tất cả các bộ phận quản trị ở một trình độ nhất
định như cấp doanh nghiệp, cấp phân xưởng, …
Như vậy, rõ ràng là số bộ phận quản trị phản ánh sự phân chia chức năng
quản trị theo chiều ngang, còn số cấp quản trị thể hiện sự phân chia chức năng
quản trị theo chiều dọc.
Sự phân chia theo chiều ngang là biểu hiện của trình độ chuyên môn hoá
trong phân công lao động quản trị. Còn sự phân chia chức năng theo chiều dọc
tuỳ thuộc vào trình độ tập trung quản trị và có liên quan đến vấn đề chỉ huy trực
tuyến và hệ thống cấp bậc.
Lý luận và thực tiễn chứng minh sự cần thiết phải bảo đảm sự ăn khớp giữa
các bộ phận quản trị, giữa cấp quản trị với bộ phận quản trị và cấp sản xuất.

Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng ở mức khái
quát nhất bởi nhân tố mục đích, mục tiêu, chức năng hoạt động của doanh
nghiệp. Cơ cấu tổ chức bao giờ cũng phải phù hợp với mục tiêu, từ mục tiêu mà
đặt ra cấu trúc bộ máy. Mục đích thay đổi hoặc mở rộng mục tiêu thường dẫn
đến thay đổi cơ cấu tổ chức. Ví dụ: một doanh nghiệp tham gia thị trường sản
xuất xe đạp. Sau một thời gian thấy việc sản xuất bàn ghế cao cấp rất có lãi,
doanh nghiệp bắt tay vào việc sản xuất bàn ghế. Như vậy từ chỗ có 1, nay doanh
nghiệp có 2 mục tiêu phải theo đuổi. Do đó, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
phải thay đổi theo, bao gồm thêm bộ phận nghiên cứu thị trường bàn ghế, bộ
phận kỹ thuật và các phân xưởng sản xuất bàn ghế. Trong cơ cấu tổ chức cảu
doanh nghiệp sản xuất thì các bộ phận sản xuất chiếm tỷ trọng chủ yếu, bộ qáy
quản trị doanh nghiệp được thiết lập hướng vào việc phục vụ tốt nhất cho hoạt
động sản xuất. Còn trong doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, các bộ phận cung cấp
20
Luận văn tốt nghiệp
đóng vai trò quan trọng, các hoạt động của bộ máy quản trị hoạt động hướng
vào phục vụ tốt cho các hoạt động này. Có thể nói rằng các doanh nghiệp có
mục đích, chức năng hoạt động không giống nhau thì không thể có cơ cấu tổ
chức bộ máy doanh nghiệp giống nhau được.
- Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tổ chức bộ máy
quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệpcó quy mô càng lớn thì cơ cấu tổ chức bộ
máy quản trị của doanh nghiệp càng phức tạp. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy
quản trị doanh nghiệp có quy mô lớn phải hình thành nhiều cấp quản trị hơn, và
ở mỗi cấp cũgng bao gồm nhiều nơi làm việc hơn rất nhiều so với những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ. Trong nhiều trường hợp thì quy mô doanh nghiệp còn
ảnh hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định đến kiểu cơ cấu tổ chức cụ thể.
Thông thường quy mô của doanh nghiệp gia tăng thì cơ cấu tổ chức cũng gia
tăng, nhưng không theo tỷ lệ như gia tăng quy mô.
- Yếu tố kỹ thuật sản xuất, đặc điểm công nghệ, loại hình sản xuất.

tính, và bản thân doanh nghiệp được trang bị đầy đủ hệ thống máy vi tính cá
nhân cần thiết sẽ làm giảm rất lớn thời gian thực hiện một nhiệm vụ quản trị cụ
thể và tăng sức hoạt động sáng tạo của đội ngũ quản trị viên rất nhiều, và do đó
cơ cấu bộ máy quản trị sẽ đơn giản hơn.
- Hình thức pháp lý của doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố trên, hình thức pháp lý của doanh nghiệp cũng có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị. Thông
thường nhân tố này tác động có tính chất bắt buộc, phải thiết kế bộ máy quản trị
theo các tiêu thức nhất định. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp sẽ do luật
pháp từng nước quy định. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (được Quốc hội
thông qua ngày 20/4/1995) thì các DNNN của nước ta được phân làm 2 loại:
+ Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp độc lập có quy mô lớn, có
cơ cấu tổ chức quản lý như sau: HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc hoặc
Giám đốc và bộ máy giúp việc.
+ Các DNNN không quy định tại khoản 1 điều này, có Giám đốc và bộ
máy giúp việc.
22
Luận văn tốt nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp (được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999) thì
công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên phải có: Hội đồng thành viên, Chủ tịch
Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc). Công ty TNHH có trên 11
thành viên phải có Ban kiểm soát. Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần
có trên 11 cổ đông phải có Ban kiểm soát.
- Cơ chế quản lý vĩ mô chính sách của nhà nước.
Không một yếu tố riêng lẻ nào có thể quyết định cơ cấu tổ chức của một
doanh nghiệp, mà cơ cấu tổ chức chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và các yếu tố
này thay đổi tuỳ theo từng trường hợp cụ thể.
1.2.2.3. Các kiểu cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
1. Cơ cấu tổ chức quản trị không ổn định.

trung và thống nhất và chịu hoàn toàn trách nhiệm về hệ thống do
mình phụ trách.
- Các mối liên hệ các cấp là mối quan hệ đường thẳng.
- Người thực hiện nhiệm vụ chỉ nhận mệnh lệnh qua một người chỉ
huy trực tiếp và chỉ thi hành mệnh lệnh của người đó.
- Người phụ trách chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc
của những người dưới quyền mình.
Ưu điểm:
- Phù hợp với tổ chức sản xuất nhỏ, đơn giản.
- Quản trị có tính tập trung, thống nhất cao, có thể giải quyết vấn đề
nhanh chóng.
Nhược điểm
Người lãnh đạo
tổ chức
Người lãnh đạo
tuyến sản xuất 1
Người lãnh đạo
tuyến sản xuất 2
1 2 1
2
24
Luận văn tốt nghiệp
- Mỗi thủ trưởng phải có kiến thức toàn diện, thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau.
- Không tận dụng được các chuyên gia có trình độ cao về từng
chức năng quản trị.
- Có sự ngăn cách giữa các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp
và thiếu sự phối hợp giữa chúng.
- Có khó khăn trong việc khuấy động tính sáng tạo.
3. Cơ cấu tổ chức quản trị chức năng (song trùng lãnh đạo).


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status