Tài liệu Luận văn " Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU" - Pdf 85

Luận văn
Những giải pháp đẩy mạnh
xuất khẩu mặt hàng thủy sản của
Việt Nam sang thị trường EU
trong những năm tới
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới của
thế kỷ 21, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không ngoại trừ đối với
Việt Nam, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền kinh tế, Đại hội Đảng
Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa
nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng mạnh vào xuất khẩu.
Để tăng xuất khẩu trong thời gian tới, Việt nam chủ trương kết hợp xuất khẩu
những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền
thống: hàng nông lâm thủy sản, khoáng sản, hàng giầy dép và dệt may) và một số mặt
hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm: ôtô, xe máy, hàng điện tử và
dịch vụ phần mềm ...
Hàng thủy sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam trong thời
gian qua đã gặt hái được sự thành công rực rỡ. Từ mức kim ngạch xuất khẩu là
550,6 triệu USD vào năm 1995, đã tăng lên mức 971,12 USD vào năm 1999, trung
bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của nước ta trong nhiều năm vừa qua. Thị trường xuất khẩu thủy sản đã
và đang được mở rộng đáng kể, thủy sản của Việt Nam đã chiếm được vị trí quan
trọng trong thị trường nhập khẩu thuỷ sản của thế giới.
Liên minh Châu Âu (EU), một thị trường nhập khẩu thủy sản đầy tiềm năng
trong thời gian qua đã có những tác động rất tích cực đến việc xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu to lớn của xuất khẩu thủy sản sang EU, vẫn
còn nhiều hạn chế, tồn tại đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực, cố gắng trong thời gian tới
để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,
tăng nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước.

KINH DOANH XUẤT KHẨU
I. QUY TRÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho (ra) nước ngoài dưới
hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường nhằm
mục đích lợi nhuận.
Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế thể hiện ở những điểm sau:
-Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại .
-Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống dân cư.
-Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ,
nhiều khâu, nhưng quy tụ lại hoạt động này gồm các bước sau.
1. Hoạt động Marketing
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là: điều tra xem nên buôn bán gì, bằng
phương pháp nào, quyết định phương châm buôn bán (điều tra thị trường, chọn bạn
hàng).
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ
doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Nghiên cứu thị
trường đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, phải trả lời được các câu hỏi
quan trọng sau đây:
-Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm xuất khẩu của
doanh nghiệp?
-Khả năng số lượng xuất khẩu được bao nhiêu?
-Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước đòi hỏi của thị trường đó?
-Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? Thương nhân trong giao dịch
là ai? Phương thức giao dịch xuất khẩu?
Nội dung của nghiên cứu thị trường xuất khẩu bao gồm các vấn đề sau:

-Điều kiện về con người, về tâm lý
+Khả năng trình độ và đào tạo nhân viên;
+Trình độ ngoại ngữ;
+Những cách sử dụng và thói quen tiêu dùng;
+Những điều cấm kỵ về xã hội và văn hóa;
+Vấn đề an ninh;
+Liên kết không tốt giữa các bộ phận trong nội bộ.
1.2 Nghiên cứu về giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới
Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh quan hệ cung- cầu hàng hóa trên thị
trường thế giới. Và nó có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của
doanh nghiệp.
1.2.1 Giá quốc tế
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hóa nhất định trên thị
trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường, không
kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển
đổi.
Trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, có thể coi những giá sau đây là giá
quốc tế.
-Đối với những hàng hóa không có trung tâm giao dịch truyền thống trên thế
giới, thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc những nước nhập khẩu chủ
yếu biểu thị bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được.
-Đối với những hàng hóa thuộc đối tượng buôn bán ở các sở giao dịch (cao
su thiên nhiên, kim loại màu) hoặc ở các trung tâm bán đấu giá (chè, thuốc lá...), thì
có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó.
-Đối với máy móc thiết bị rất đa dạng, việc xác định giá cả quốc tế tương đối
khó. Vì vậy, trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả các hãng sản xuất và mức cung
trên thị trường.
1.2.2. Dự đoán xu hướng biến động giá cả
Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả của loại hàng hóa mà
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường thế giới, phải dựa vào kết quả

người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp
đồng mua bán hàng hóa hay hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc xuất khẩu hàng hóa
của doanh nghiệp. Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách hàng trong kinh
doanh xuất khẩu có thể được chia làm ba loại:
-Các hãng hay công ty.
-Các tập đoàn kinh doanh.
-Các cơ quan nhà nước.
Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các
vấn đề sau:
-Tình hình kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng
mua hàng thường xuyên của hãng.
-Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
-Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành
lấy độc quyền về hàng hóa.
-Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất là nên lựa chọn đối tác
trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm
nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
2.2. Các phương thức giao dịch trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa
Trên thị trường thế giới, đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và kỹ
thuật tiến hành riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian
giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương
thức giao dịch phù hợp, chủ yếu là các phương thức sau đây:
-Giao dịch trực tiếp.
-Giao dịch qua trung gian.
-Phương thức buôn bán đối lưu.
-Đấu giá quốc tế.
-Đấu thầu quốc tế.
-Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa.

khoản của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi
trong thời hạn quy định cho người bán.
-Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua. Trường
hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản, đơn đặt hàng của người mua và văn
bản xác nhận của người bán.
-Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thỏa thuận trước đây giữa các bên (nêu
rõ các điều khoản đã thỏa thuận).
Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp được các bên ký vào
hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng.
Hợp đồng được coi như ký kết chỉ khi những người tham gia ký có đủ thẩm
quyền ký vào các văn bản đó, nếu không hợp đồng không được công nhận là một
văn bản có cơ sở pháp lý.
4. Thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự
công việc phải làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gây nên thiệt hại. Tất cả
các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại. Phải yêu cầu đối phương thực hiện các
nhiệm vụ theo hợp đồng.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu

Khi nghiên cứu trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần lưu ý:
-Tùy thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất nhập khẩu phải thực hiện các
nghiệp vụ khác nhau. Trình tự thực hiện các nghiệp vụ cũng không cố định. Trên cơ
sở nắm chắc các khâu nghiệp vụ mà tìm hiểu yêu cầu nghiệp vụ của từng giai đoạn
cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng.
-Trong khâu nghiệp vụ cụ thể có thể là nghiệp vụ của người bán hay người
mua phụ thuộc vào cách quy định điều kiện cơ sở giao hàng ghi trong hợp đồng
mua bán hàng hóa đã ký kết.
Quá trình thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu gồm:
- Xin giấy phép xuất khẩu hàng hóa

ta rộng hơn 1 triệu km
2
(gấp 3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước 1triệu km
2
,
trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ khai thác được
khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.
Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt
nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ
nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi
trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng suất của các nước trong khu vực.
Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100
loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng thềm lục
địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm.
Tình hình cụ thể của các loài cá:
-Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.
-Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.
-Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.
Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như sau:
-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn
(chiếm 16,3%).
-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560
tấn(chiếm 14,3%).
-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác: 830.456
tấn (chiếm 49,3%).
-Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272 tấn
(chiếm 12,1%).
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác
không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt
Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000

lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên
liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
-Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ thuật
sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hơn 1
tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công nghệ để
chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề mới từ
nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
-Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn
nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế “
lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và
nuôi trồng “, qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, sản
phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một số sản
phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc tế trên lĩnh vực
công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là thành viên của NACA từ năm
1988, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia vào hoạt động của ICLARM, quan sát
viên của INFOFISH, cũng như sự hiện diện của nghề cá thế giới. Đó là những nhân
tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta.
Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền kinh tế quốc dân
sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng vào năm
2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có sự tăng
trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp của ngành
thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì tiềm năng phân
phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân cư ở nông
thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và nuôi trồng
thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.
2.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu
Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có sự
bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch
xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó thể hiện
rõ nét qua bảng số liệu sau:

Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường xuyên
cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số lao động thủy sản là 3,03
triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% dân số sống phụ
thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ
các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người. Ngoài ra,
đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và thu
nhập phụ cho hơn 20 triệu người.
Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu
người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản
khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề cá
khoảng 1.991.868 người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1
triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập trực
tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thủy sản
dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2 triệu người
trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ có thêm thu
nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng
3 triệu người.
III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ LUẬT PHÁP VÀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM CỦA EU ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM:
EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt với tiêu
chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành
tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện
sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ
quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải
ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm
nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch để nhận dạng
lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác động của
môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.

do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường chung
Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà còn là thị trường
nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động như
với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam Á là vùng hiện
đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập khẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc với
hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ nhưng
những chính phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng không bao giờ
chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu. Tất cả 15 chính phủ
đều tuân theo một đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm nổi bật của các nước EU
trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước đều tăng trưởng, tuy có cao thấp
khác nhau, nhưng ổn định. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại
các nước EU năm 1999 - 2000 (%)
Tên nước 1998 1999 2000
Áo
3,3 2,5 3,0
Bỉ
2,9 2,0 2,3
Anh
2,3 1,0 1,5
Đức
2,8 2,0 2,5
Hy Lạp
3,5 3,0 2,8
Đan Mạch
2,7 1,5 2,3
Ai-rơ-len
9,5 7,5 7,5

thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế
giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm khoảng
3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà Lan. Do
vậy nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là thị trường khó
tính và có chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và an
toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm 1993 quy định
các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương đương như
các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của
EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành
phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện
để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập
những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác dụng của môi trường hoặc do các chất
phụ gia không được phép sử dụng.
3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU
Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà hàng
và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. Ở nhiều nước, mảng thị trường
này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay gia đình
thì đều phải qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các nước, thói
quen ăn uống rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao động từ 15-
17 kg. Việc thay đổi lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn uống và thói quen mua bán.
Nhiều phụ nữ ngày nay đi làm chứ không ở nhà nên họ đánh giá cao sự tiện lợi của
các thực phẩm ăn liền, thường là ở dạng đóng gói đông lạnh. Cũng như vậy, mức
tiêu thụ sản phẩm đông lạnh tại nhà hàng và dịch vụ ăn uống càng tăng. Người Bắc
Âu không có truyền thống ăn thủy sản thì nay đang quen dần với nó. Chính những
chuyến nghỉ cuối tuần tới các nước khác góp phần cho các thay đổi trên. Những
khuynh hướng trên hy vọng sẽ đem đến những thay đổi tích cực trong việc bán thủy
sản.
3.2. Các yêu cầu của người nhập khẩu
Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập thường là

1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU nào
có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi nhiều
nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia thị trường
này thì thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích và
hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều kênh mậu
dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch
và các bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực
hiện bởi các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng
thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh khác nhau trong
thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực tiếp với người sử dụng cuối cùng,
còn một số khác lại bán cho các nhà kinh doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc
qua các đại lý bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu Âu.
Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài với
người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước ngoài) để
biết được những nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử dụng cuối cùng.
Họ cung cấp trực tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất thành
phẩm. Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục vụ
những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà sản
xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý, nhà nhập
khẩu hoặc từ ngành chế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ chuyên
chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ, chuyên hoạt
động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát triển và xuất khẩu
sang các nước láng giềng ở Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ tới
người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị

Bỉ
19.076.000 25.466.772 +6.390.772
Bồ Đào Nha
92.873 126.189 +33.316
Đan Mạch
1.625.599 679.329 -946.270
Đức
10.034.280 10.840.216 +805.936
Hà Lan
27.675.547 23.187.799 -4.487.748
Italia
7.388.718 9.923.270 +2.534.808
Phần Lan
- 52.268 -
Pháp
8.218.718 5.568.664 -2.650.054
Tây Ban Nha
2.483.196 2.898.832 +415.636
Thụy Điển
563.134 713.565 +150.431
Tổng
91.537.776 89.113.459 -2.424.317
Nguồn : Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng không phải tất cả 15 nước thành viên
EU đều nhập khẩu thủy sản của Việt Nam mà chỉ tập trung vào 12 nước, ngoại trừ
Lúc-xăm-bua, Hy Lạp và Ai-rơ-len. Trong số các nước Eu nhập khẩu thủy sản của
nước ta thì Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Italia luôn là những nước có giá trị nhập
khẩu thủy sản rất lớn, có thể nói đây là thị trường chính yếu của thủy sản Việt Nam
khi xuất sang EU.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU với giá trị đạt được là 75.169.809 USD

trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU trong năm 1999. Mặt khác, những nước
còn lại có tổng mức gia tăng không đáng kể so với tổng mức suy giảm của 5 nước
trên.
Sự suy giảm trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của EU năm 1999 chịu sự
tác động mạnh mẽ của tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước EU. Mặt khác, tiêu chuẩn
chất lượng cho hàng thủy sản mà EU áp dụng vẫn là bài toán nan giải cho thủy sản
xuất khẩu Việt Nam.
3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU
Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU.
Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Nhập
khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các sản phẩm
thủy sản khác.
Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều thông qua các
công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng Kông.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại, trong đó:
tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650 tấn, thủy sản khác là
6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đã thông qua quyết định bắt đầu từ năm
1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò, hến...) từ nhiều nước trong đó có
Việt Nam, vì EU chưa kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế biến ở các
nước xuất khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy sản của Việt
Nam sang EU, do đó tác động đến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Để xem xét cụ thể hơn về cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang EU,
ta có bảng sau đây:
Bảng 5: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU năm 1997-1998
Năm
Tôm đông
(tấn)
Mực đông
(tấn)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status