Tài liệu Đề án “Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới” - Pdf 90

    ĐỀ ÁN

“Những giải pháp đẩy mạnh xuất
khẩu mặt hàng thủy sản của Việt
Nam sang thị trường EU trong
những năm tới”


các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong nhiều năm vừa qua. Thị
trường xuất khẩu thủy sản đã và đang được mở rộng đáng kể, thủy sản của Việt
Nam đã chiếm
được vị trí quan trọng trong thị trường nhập khẩu thuỷ sản của
thế giới.
Liên minh Châu Âu (EU), một thị trường nhập khẩu thủy sản đầy tiềm
năng trong thời gian qua đã có những tác động rất tích cực đến việc xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu to lớn của xuất khẩu thủy sản
sang EU, vẫn còn nhiều hạn ch
ế, tồn tại đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực, cố gắng
trong thời gian tới để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, nhằm tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước.
Xuất phát từ nhận thức trên đây, cũng như vai trò to lớn của xuất khẩu
thủy sản trong cơ cấu xuất khẩ
u của nước ta, tôi đã chọn đề tài “ Những giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường
EU trong những năm tới “ để viết đề án môn học. Việc nghiên cứu đề tài này
có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân tôi, nhằm củng cố và nâng cao lý luận, vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo những kiến thức đã h
ọc vào thực tiễn. Đồng
thời qua phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU của nước
ta những năm gần đây, có thể mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu thủy sản trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu mà tôi sử dụng trong quá trình xây dựng đề án
này là: kết hợp những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập với những
quan sát đã thu thập trong thực tế, kết hợp tổng hợp tài liệu, sách báo với việc
đi sâu phân tích tình hình thực tế nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất để giải
quyết những vấn đề đặt ra trong đề án.
Đề án kết cấu gồm có 3 chươ
ng:

i hóa đất nước.
-Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại .
-Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống dân cư.
-Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu được tổ chức, thực hiện v
ới nhiều
nghiệp vụ, nhiều khâu, nhưng quy tụ lại hoạt động này gồm các bước sau.
1. Hoạt động Marketing
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là: điều tra xem nên buôn bán gì,
bằng phương pháp nào, quyết định phương châm buôn bán (điều tra thị trường,
chọn bạn hàng).
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với
bất cứ doanh nghi
ệp nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Nghiên
cứu thị trường đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, phải trả lời được các
câu hỏi quan trọng sau đây:
-Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm xuất khẩu
của doanh nghiệp?
-Khả năng số lượng xuất khẩu được bao nhiêu?
-Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước đòi hỏ
i của thị trường đó?
-Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? Thương nhân trong giao
dịch là ai? Phương thức giao dịch xuất khẩu?
Nội dung của nghiên cứu thị trường xuất khẩu bao gồm các vấn đề sau:
hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như
thế nào; nó diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ
mới.
1.1.3 Phân tích các điều kiện của thị trường xuất khẩu

-Điều kiện về con người, về tâm lý
+Khả năng trình độ và đào tạo nhân viên;
+Trình độ ngoại ngữ;
+Những cách sử dụng và thói quen tiêu dùng;
+Những điều cấm kỵ về xã hội và văn hóa;
+Vấn đề an ninh;
+Liên kết không tốt giữa các bộ phận trong nội bộ.
1.2 Nghiên cứu về giá cả hàng hóa trên thị trường thế gi
ới
Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh quan hệ cung- cầu hàng hóa trên
thị trường thế giới. Và nó có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
của doanh nghiệp.
1.2.1 Giá quốc tế
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hóa nhất định trên
thị trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường,
không kèm theo một điều ki
ện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi.
Trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, có thể coi những giá sau đây là giá
quốc tế.
-Đối với những hàng hóa không có trung tâm giao dịch truyền thống trên
thế giới, thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc những nước nhập
khẩu chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi đượ
c.
-Đối với những hàng hóa thuộc đối tượng buôn bán ở các sở giao dịch
(cao su thiên nhiên, kim loại màu) hoặc ở các trung tâm bán đấu giá (chè, thuốc
lá...), thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó.
-Đối với máy móc thiết bị rất đa dạng, việc xác định giá cả quốc tế tương
đối khó. Vì vậy, trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả các hãng sản xuất và
mức cung trên thị trường.

-Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn.
Những tiêu chuẩn trên phải được cân nhắc, điều chỉnh tùy theo mức quan
trọng của chúng đối với doanh nghiệp.
2. Lựa chọn đối tượng giao dịch, phương thức giao dịch trong hoạt động
kinh doanh xuất kh
ẩu hàng hóa
2.1. Lựa chọn đối tượng giao dịch
Trong kinh doanh xuất khẩu, bạn hàng hay khách hàng nói chung là
những người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện
các hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc xuất
khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách
hàng trong kinh doanh xuất khẩu có thể được chia làm ba loại:
-Các hãng hay công ty.
-Các tập đoàn kinh doanh.
-Các cơ quan nhà nước.
Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu
các vấn đề sau:
-Tình hình kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả
năng mua hàng thường xuyên của hãng.
-Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
-Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng
giành lấy độc quy
ền về hàng hóa.
-Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất là nên lựa chọn đối
tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn
thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
2.2. Các phương thức giao dịch trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa
Trên thị trường thế giới, đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch trong
hoạt động kinh doanh xu

nắm chắc thị trường mới đàn phán.
-Tìm hình thức và biện pháp phù hợ
p để chuẩn bị đàm phán giao dịch.
-Xác định hướng nhằm mục đích thu được hiệu quả tối đa.
-Đàm phán giao dịch để ký hợp đồng.
-Khi thực hiện hợp đồng, tranh thủ điều kiện hợp lý để đạt hiệu quả cao
nhất.
-Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ, kiểm tra và làm các thủ tục khi cần phải
khiếu nại. Nếu b
ị khiếu nại phải bình tĩnh giải quyết để đạt chi phí tối thiểu.
3.2.2. Phương thức ký kết hợp đồng
Việc ký kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng một số cách sau đây:
-Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua- bán (một văn bản).
-Người mua xác định nhận thư chào hàng cố định của người bán (bằng
văn bản).
-Người bán xác nhậ
n (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều
khoản của thư chào hàng tự do, nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi
trong thời hạn quy định cho người bán.
-Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua.
Trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản, đơn đặt hàng của người
mua và văn bản xác nhận của người bán.
-Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thỏa thuận trước đây giữa các bên
(nêu rõ các điều khoản đã thỏa thuận).
Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp được các bên ký
vào hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng.
Hợp đồng được coi như ký kết chỉ khi những người tham gia ký có đủ
thẩm quyền ký vào các văn bản đó, nếu không hợp đồng không được công nhận
là một văn bản có cơ sở pháp lý.
4. Thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu

- Chuẩn bị hàng xuất khẩu
- Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá xuất khẩu
- Thuê tàu lưu cước
Ký kết hợp đồng
xuất khẩu

Xin giấy phép
(nếu có)
Kiểm tra L/C
Chuẩn bị hàng
xuất khẩu

Thủ tục hải quan

Kiểm tra hàng hóa
xuất khẩu
Mua bảo hiểm
(nếu được)
Thuê tàu
(nếu có)

Giao hàng cho
tàu
Thủ tục thanh
toán

Xử lý tranh
chấp (nếu có)
- Mua bảo hiểm
- Làm thủ tục hải quan

Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như
sau:
-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn
(chiếm 16,3%).
-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560
tấn(chiếm 14,3%).
-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác:
830.456 tấn (chiếm 49,3%).
-Bi
ển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272
tấn (chiếm 12,1%).
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai
thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế
của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm,
30.000- 40.000 tấn mực.
Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như
đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam,
đứng trước nhu cầu mạnh mẽ c
ủa thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực
phẩm của đất nước đã có những bước phát triển ngoạn mục và trở thành một
trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước.
2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Thủy sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc trưng gồm có các lĩnh vực:
khai thác, nuôi trồng, chế biến, c
ơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại, là một trong
những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy
sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các
vùng nước, do vậy có mối liên ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận
tải, dầu khí, hải quan...
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng c

chế “ lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai
thác và nuôi trồng “, qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở
cửa đến
nay, sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với
một số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc
tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là thành viên
của NACA từ năm 1988, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia vào hoạt động
của ICLARM, quan sát viên của INFOFISH, cũng như sự
hiện diện của nghề cá
thế giới. Đó là những nhân tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta.
Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền kinh tế quốc
dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng
vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có
sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp
của ngành thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì
tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ
phận dân cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào
nghề cá và nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.
2.2. Vai trò củ
a ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu
Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có
sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim
ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó
thể hiện rõ nét qua bảng số liệu sau:
B
ảng 2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam qua một
số năm
Năm

1995 1996 1997 1998 1999

2.3 Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm
Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường
xuyên cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số lao động thủy
sản là 3,03 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm
nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm
8,7% dân số sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng
như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người.
Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng th
ủy sản còn đảm bảo việc làm không thường
xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người.
Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu
người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản
khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề
cá khoảng 1.991.868 người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ t
ăng lên
khoảng 8,1 triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa,
thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và
nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên.
Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng
thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được
ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ LUẬT PHÁP VÀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM CỦA EU ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM:
EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt với
tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị 91/493/EEC ban
hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có
điều kiện sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG EU
1. Về kinh tế - chính trị
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức
thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 07/02/1992, Hiệp ước
Maastricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất chính trị, kinh tế,
tiền tệ giữa các nước thành viên EU. Cho đến nay, EU đã là một thị trường rộng
lớn, bao gồm 15 quốc gia với gần 400 triệu ngườ
i tiêu dùng. Thị trường EU
thống nhất cho phép tự do lưu thông người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các
nước thuộc Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường
gồm 380 triệu người tiêu dùng.
Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đã bị xóa
bỏ, do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường
chung Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩ
u lớn nhất thế giới mà còn là thị
trường nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu
Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động
như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam Á là vùng
hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập
kh
ẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc
với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ
nhưng những chính phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng
không bao giờ chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu.
Tất cả 15 chính phủ đều tuân theo một đường lối chung v
ề đân chủ.Đặc điểm

Phần Lan
5,0 3,0 3,2
Pháp
3,2 2,5 2,8
Thụy Điển
2,9 2,2 2,6
Nguồn: Tạp chí Thương mại số 26/ 1999
2.Về mức sống dân cư
Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu người rất cao,
trong những năm gần đây mức bình quân đó là khoảng 20.000 đô la Mỹ. Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) trong một số năm qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần
30% GDP của thế giới. Dân số khu vực EU khoảng 375 triệu người, chiếm 6,5%
dân số toàn thế giới.
N
ếu như năm 1997, mức GDP bình quân đầu người là 21.893 đô la Mỹ
thì năm 1999 là 21.764 đô la Mỹ, năm 2000 được dự báo là 22.872 đô la Mỹ và
sẽ tăng lên 29.531 đô la Mỹ vào năm 2003.
EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các
khu vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng
năm một người dân EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cá nhân. 3. Về thói quen tiêu dùng
EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ
an toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán
được ở thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn
thế giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng n
ăm
khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia,

Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập
thường là khối đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm lạnh ngay trên tàu.
Các hải sản đánh bắt được làm lạnh trên bờ cả khối hoặc làm đông lạ
nh nhanh
riêng rẽ (IQF). Nhìn chung sản phẩm đông lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì
lý do chất lượng. Các nhà nhập khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung,
thích loại sản phẩm được làm lạnh theo phương pháp IQF hơn.
Gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản đóng gói bán lẻ đang tăng lên, kể cả
ở các thị trường truyền thống như Đức. Tuy nhiên, phần lớn thủy sản đóng gói
bán lẻ trong buôn bán quốc tế được thực hiện ở Tây Âu cho dù xuất xứ của hàng
thô là từ các nước Châu Á.
Thủy sản đóng hộp cũng có chút ít thị trường như ở Hy Lạp hoặc Đứ
c.
Thị trường có thể mở rộng cho loại rau câu, có lẽ nên đóng lọ thủy tinh hơn là
hộp thiếc để hấp dẫn người mua.
3.4. Tiếp cận thị trường
Biểu thuế nhập khẩu chung của EU áp dụng cho tất cả các nước EU. Tất
cả việc nhập khẩu cá và các sản phẩm cá từ các nước ngoài EU đều phải có giấy
phép.
Để tránh sự mất ổn định trong th
ị trường nội bộ do nhập khẩu, EU đã đưa
ra biểu giá tham khảo cho một số mặt hàng nhất định như mực ống và mực thẻ.
Quy định vệ sinh thực phẩm trong chế biến, kinh doanh cá và sản phẩm từ cá và
là một phần của Luật quốc gia về thực phẩm của các nước thành viên EU thì chỉ
các công ty có giấy phép mới được nhập hàng này.
Tất cả các thực phẩm
đều là đối tượng của Bộ Luật quốc gia về thực
phẩm và có thể khác nhau giữa các nước.
Vấn đề cải thiện chất lượng và đóng gói là rất quan trọng đối với phần lớn
các nước đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới và tăng xuất khẩu

quảng cáo và phục vụ những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà
sản xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý,
nhà nhập khẩu hoặc từ ngành ch
ế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ
chuyên chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ,
chuyên hoạt động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát
triển và xuất khẩu sang các nước láng giềng ở Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ t
ới
người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị
trường EU. Các nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó khăn trong việc nhập khẩu trực
tiếp từ nước ngoài, trừ một vài siêu thị lớn.
Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ truyền
thống. Các sạp nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun khói.
2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sả
n của Việt Nam
Thị trường EU luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ của các nước
Châu Á, trong đó có Việt Nam mà còn là mục tiêu của nhiều nước châu lục
khác, kể cả Bắc Mỹ. Bởi không chỉ số dân đông trên 350 triệu dân với mức sống
cao, ẩm thực đa dạng, với giá cả hấp dẫn, mà còn là thị trường uy tín, xuất khẩu
được hàng thủy sản vào EU cũng có nghĩa nh
ư có trong tay chứng chỉ về trình
độ, chất lượng sản phẩm cao. Tuy vậy, EU vẫn đang sử dụng vũ khí quan thuế
và phi thuế quan trừng phạt, chia nhóm ra để hạn chế, khống chế các nước xuất
khẩu theo những điều kiện có lợi nhất cho họ. Đối với Việt Nam, thị trường này
đã có một một số cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩ
u tôm, bạch tuộc, cá
ngừ, mực. Trong một số năm, cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của

8.218.718 5.568.664 -2.650.054
Tây Ban Nha
2.483.196 2.898.832 +415.636
Thụy Điển
563.134 713.565 +150.431
Tổng
91.537.776 89.113.459 -2.424.317
Nguồn : Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng không phải tất cả 15 nước thành
viên EU đều nhập khẩu thủy sản của Việt Nam mà chỉ tập trung vào 12 nước,
ngoại trừ Lúc-xăm-bua, Hy Lạp và Ai-rơ-len. Trong số các nước Eu nhập khẩu
thủy sản của nước ta thì Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Italia luôn là những nước
có giá trị nhập khẩu thủy sản rất lớ
n, có thể nói đây là thị trường chính yếu của
thủy sản Việt Nam khi xuất sang EU.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU với giá trị đạt được là 75.169.809
USD (22.629 tấn thủy sản xuất khẩu). Nhưng đến năm 1998, con số này đã tăng
lên rất lớn với giá trị là 91.537.776 USD (23.081 tấn thủy sản xuất khẩu). So với
năm 1997, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1998 sang thị trườ
ng EU đã
tăng 16.367.967 USD hay tăng 21,8%. Điều này chứng tỏ rằng hàng thủy sản
Việt Nam ngày càng có được thế đứng vững chắc, được người tiêu dùng khó
tính của EU chấp nhận.
Năm 1998, các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan đã nhập khẩu thủy sản của
Việt Nam với giá trị rất lớn (trên 10 triệu USD), đặc biệt là Anh, Bỉ và Hà Lan
(Anh: 14.086.283 USD , Bỉ: 19.076.000 USD, Hà Lan: 27.675.547 USD). Ngoài
ra, Pháp và Italia cũng là những nước có giá trị nhập khẩu thủy sản khá lớn của
EU.
Nói chung, trong 2 năm 1997-1998, EU là thị trường có tốc độ tăng
trưởng ổn định, sức mua cao nên xuất khẩu thủy sản của nước ta có nhiề

cho thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU
Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang thị
trường
EU. Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam.
Nhập khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các
sản phẩm thủy sản khác.
Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều thông qua
các công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng Kông.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại, trong
đó: tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650 tấn, thủy sản
khác là 6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đ
ã thông qua quyết định bắt đầu
từ năm 1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò, hến...) từ nhiều nước
trong đó có Việt Nam, vì EU chưa kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế
biến ở các nước xuất khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy
sản của Việt Nam sang EU, do đó tác
động đến kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường này.
Để xem xét cụ thể hơn về cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU, ta có bảng sau đây:
Bảng 5: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU năm 1997-1998
Năm
Tôm đông
(tấn)
Mực đông
(tấn)
Cá đông
(tấn)

còn quá nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có “ CODE “ xâm nhập vào EU),
Hồng Kông: 7.132 tấn, Trung Quốc: 313 tấn và các thị trường khác là 8.712 tấn.
Về sản phẩm mực đông, năm 1998 tăng so năm 1997 là 35,64 tấn hay
tăng 2,16%, nhưng về giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ
bằng 80% so với năm
1997 hay chỉ đạt 4.067.693 USD. Điều này là do công nghệ chế biến mực hiện
nay của ta đã có nhiều cải tiến, song việc tạo ra những sản phẩm có giá trị cao
vẫn còn hạn chế, chủ yếu là xuất nguyên liệu.
Về sản phẩm cá đông lạnh, năm 1998 sản lượng xuất khẩu là 3432,5 tấn,
tăng 724,5 tấn so với năm 1997 trong khi giá trị kim ngạch là 15.176.655 USD,
t
ăng 81,27% so với năm 1997 và bằng 230% các chỉ tiêu tương ứng của 5 năm
trước. Có được sự gia tăng này là do mặt hàng cá đông lạnh của Việt Nam ngày
càng đáp ứng được nhu cầu cao của thị trường EU (nhất là cá bơn, cá ba sa Việt
Nam), cho nên đã tác động tốt tới giá cả xuất khẩu, tới tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu. Năm 1998 là năm mà sản phẩm cá đông lạnh Việt Nam có sự
tăng
trưởng cao ở thị trường EU và thị trường Mỹ.
Các sản phẩm thủy sản khác như: mực khô, bạch tuộc, cá hộp, cá hun
khói... năm 1998 giảm 629,64 tấn so với năm 1997 là bởi vì các sản phẩm này
có giá trị không cao, ít doanh nghiệp Việt Nam tham gia kinh doanh. Các doanh
nghiệp chỉ tập vào các sản phẩm có giá trị cao như tôm đông, cá đông nên đã tác
động rất lớn đến tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủ
y sản sang EU năm 1998.
Năm 1999, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU của Việt Nam
giảm 2,65% hay giảm 2.424.317 USD so với năm 1998. Điều này là do các sản
phẩm thủy sản nước ta xuất đi EU phần lớn là thông qua các công ty của
ASEAN. Đây là vấn đề bức xúc đối với ngành thủy sản nước ta trong việc giao
dịch xuất khẩu, phải làm sao hạn chế các trung gian, tăng cường xuất khẩu trự
c


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status