Tài liệu Chương 6: Pháp luật về phá sản doanh nghiệp - Pdf 91


CHƯƠNG 6
PHÁP LUẬT VỀ
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Văn bản pháp luật: Luật phá sản 2004;
Người biên soạn:
TSKH. LS.Đặng Công Tráng
Chủ nhiệm Bộ môn pháp luật ĐHCNTP.HCM

I. Vai trò của pháp luật về phá sản trong
nền kinh tế thị trường:
1. Khái quát về phá sản:
Theo ngôn ngữ chung ở nhiều quốc gia, thuật
ngữ “phá sản” đều được sử dụng để diễn tả tình
trạng khó khăn về tài chính của một chủ doanh
nghiệp mà biểu hiện cụ thể của tình trạng đó là sự
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Ở Việt Nam, cùng với thuật ngữ “phá sản” thì
người ta còn dùng các từ: “khuynh gia, bại sản”,
“khánh kiệt”, “ vỡ nợ” hay “ sập tiệm” để chỉ tình
trạng tài chính trầm trọng của người mắc nợ.

Nói cụ thể hơn, dù có thể được sử dụng ở các
ngữ cảnh khác nhau song những từ đồng nghĩa này
đều diễn tả tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn của người mắc nợ khi có yêu cầu.
Dưới góc độ pháp lý, phá sản được đề cập
như là một thủ tục xử lý tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ của một chủ thể do Toà án tiến hành.
TỔNG GIÁ TRỊ
TÀI SẢN

Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả
kinh tế xã hội nhất định. Nhưng xét về mặt kinh tế
Phá sản cũng là một giải pháp hữu hiệu trong
việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự
tồn tại của những DN đủ sức đứng vững trong điều
kiện cạnh tranh.

2. Phân loại phá sản.
*/ Phá sản trung thực và phá sản gian trá
Sự phân biệt hành vi trung thực hay gian trá
được xác định dựa vào sự phân tích nguyên nhân
dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp.
Trong phá sản trung thực, tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ nằm ngoài mong muốn của chủ
doanh nghiệp mắc nợ.

Trái lại, tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ bị coi là giả tạo và gian trá, khi tình trạng đó
được chủ doanh nghiệp mắc nợ sắp đặt trước và tạo
ra nhằm lợi dụng việc tuyên bố phá sản để trốn
tránh nghĩa vụ tài sản hoặc chiếm đoạt tài sản của
chủ thể khác.
Chẳng hạn, doanh nghiệp mắc nợ tạo ra vụ
cháy kho chứa hàng rồi tuyên bố mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn.
Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định
thái độ đối xử của PL đối với con nợ.

*/ Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc.
Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp

3. Pháp luật về phá sản:
Pháp luật về phá sản là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều
chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải
quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy được
tính đặc thù của pháp luật phá sản thể hiện ở chỗ:
Các qui định của pháp luật phá sản vừa chứa
đựng qui phạm PL về nội dung vừa chứa đựng qui
phạm PL về hình thức.

- Qui phạm PL về nội dung: điều chỉnh quan
hệ về tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quyền và
nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ đó.
Khách thể của quan hệ này: là tài sản của
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
- Qui phạm PL về hình thức: điều chỉnh quan
hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan,
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này.
Khách thể của quan hệ này: chính là quá trình
giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.

a. Những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung
luật phá sản:
- Nội dung của luật phá sản bị quyết định bởi
tính chất của nền kinh tế. (nó chỉ tồn tãi trong nền
KTTT).
- Nội dung của luật phá sản chỉu ảnh hưởng
của trình độ phát triển kinh tế. Điều này lý giải vì


Chương II: Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản.
Chương này qui định những đối tượng nào có
quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã và khi nào thì được nộp đơn
cũng như việc thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã của Tòa án có thẩm
quyền.

Chương III: Nghĩa vụ về tài sản.
Chương này xác định nghĩa vụ về tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản; thứ
tự phân chia tài sản và việc xử lý các tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã trong các trường hợp cầm
cố, thế chấp, nghĩa vụ liên đới hoặc bảo lãnh,v.v…

Chương IV: Các biện pháp bảo toàn tài sản.
Chương này qui định các biện pháp đảm bảo
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã có yêu cầu
tuyên bố phá sản không bị thất thoát trong thời
gian Tòa án tiến hành mở thủ tục tuyên bố phá sản
đến khi thực hiện hoàn tất thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã đó.

Chương V: Hội nghị chủ nợ.
Chương này qui định ai có quyền tham gia
vào hội nghị chủ nợ; trình tự thủ tục tiến hành hội
nghị chủ nợ; nhiệm vụ và quyền hạn của hội nghị
chủ nợ cũng như những vấn đề có liên quan đến

cho rằng, phá sản là tội phạm và bị trừng phạt.
Ngày nay, không còn quan niệm như vậy
nữa. Tuyệt đại đa số các nước đều cho rằng, kinh
doanh là việc khó, đầy rủi ro, vì vậy, pháp luật cần
phải đối xử nhân đạo với các nhà doanh nghiệp.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status