Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)" - Pdf 95

u XW
Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào
thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa
gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn
ngạch (quota) Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
LỜI MỞ ĐẦU
Hoa kỳ là một thị trường lớn, đa dạng và phức tạp, sau 10 năm bình
thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thị trường này đã phát triển rất nhanh.
Chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải không chỉ điểm lại

Dệt may là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn vào thị trường Hoa
Kỳ, là mặt hàng có nhiều tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt. Em hy
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
vọng rằng đề tài sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu
vào thị trường Hoa Kỳ.
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
CHƯƠNG 1
THỊ TRƯỜNG HOA KỲ VÀ CƠ HỘI
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị
trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói
chung và sản phẩm dệt may Việt Nam nói riêng
Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới cả về kinh tế, khoa h
ọc
công nghệ, có tài nguyên rất phong phú. Hiện nay với dân số khoảng trên 293
triệu người, trong đó 75% sống ở thành thị, tổng sản phẩm quốc nội trên
10.000 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 36.000 USD hàng
năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên 1.300 tỷ USD, chiếm khoảng 1/5 tổng kim
ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới. Việc thâm nhập thị trường Hoa Kỳ - một
thị trường rộng lớn nhất thế
giới với mức thu nhập cao và nhu cầu tiêu dùng
đa dạng về nhiều chủng loại hàng hoá với khối lượng lớn - thị trường tiêu thụ
hàng hoá của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế
giới. Đúng như lời nhận xét về thị trường Hoa Kỳ, Đại Sứ - Trưởng phái đoàn
Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nói: "…đây là thị trườ
ng không đáy….". Khi

mỹ nghệ cũng cần đảm bảo tính thống nhất và có khối lượng đủ lớn).
Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường.
Môi trường pháp lý của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp, nhiều khi có sự
khác biệt giữa luật của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt
của chính quyền địa phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở
đây phải được bảo hành tốt và an toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và
niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu
chốt khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và việc sử dụng các Công ty tư vấn
nói chung trong đó có Công ty tư vấn Hoa Kỳ là điều cần chú trọng.
Thứ t
ư, tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối.
Hệ thống phân phối hàng hoá ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao, có tổ
chức hoàn chỉnh, nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì
không thể đưa hàng hoá vào thị trường này (không có buôn bán tiểu ngạch
hoặc buôn bán đường biên như có thể thấy trong một số trường hợp khác).
Người dân Mỹ có thói quen mua sắm tại các siêu thị hay cửa hàng lớn. H

thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Nếu chưa tham gia vào
các kênh phân phối lớn thì không những không phát triển được thị trường mà
còn cản trở đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào hệ thống luật
pháp của Mỹ. Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa
chọn được nhà phân phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách
hàng hoá đúng vớ
i thị hiếu và yêu cầu của khách hàng Mỹ.
Thứ năm, thị trường có sức cạnh tranh rất cao.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Hoa Kỳ có

nghiệm. Tiềm năng lực lượng sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ
chưa được quan tâm đúng mức, tính cộng đồng Việt Nam rất yếu nên khả

năng thực hiện công tác xúc tiến và đầu tư bị hạn chế. Bởi vậy một mặt phải
thận trọng tránh vội vàng khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Giai
đoạn đầu cần có sự môi giới của Việt kiều. Mặt khác phải tìm và lựa chọn
được khách hàng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp có uy tín vào kinh
doanh và đầu tư ở Việt Nam.
Thứ tám, chi phí dịch vụ trong cơ cấu giá thành sản ph
ẩm chiếm tỷ
trọng cao.
Hàng hoá đưa vào bán lẻ tại Hoa Kỳ khá cao bởi chi phí dịch vụ lớn
làm hạn chế cơ hội thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị
trường Hoa Kỳ.
Thứ chín, hệ thống tư vấn tại Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng đặc biệt
là tư vấn pháp luật.
Đây là đòi hỏi khách quan bởi đặc điểm của thị trường này, chi phí tư

vấn tại Hoa Kỳ rất cao. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết sử dụng tư vấn
của các Công ty tư vấn pháp luật Hoa Kỳ, mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng được những Công ty tư vấn của Việt
Nam có trình độ chuyên môn ngang tầm quốc tế như các công ty Hoa Kỳ.
Việt Nam đang thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xu
ất khẩu, thị trường Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt, là điểm đến của các
sản phẩm chế tạo xuất khẩu. Với việc dành cho Việt Nam quyền xuất khẩu
sang Hoa Kỳ trên cơ sở MFN, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã
mở ra những cơ hội to lớn để phát triển hàng xuất khẩu của Việt Nam. Để có
thể tậ
n dụng được cơ hội, biến khả năng thành hiện thực, tức là có thể thực sự

Mặt hàng
Xuất khẩu
vào Hoa Kỳ
Xuất khẩu vào
EU
Tỷ lệ
Hoa Kỳ/EU
Nông sản 13,9 14,8 0,9
Khoáng sản 6,6 7,2 0,9
Nhiên liệu 3,4 3,2 1,1
Hàng công nghiệp chế tạo 396 249,4 1,6
Sản phẩm ô tô 54,7 19,8 2,8
Thiết bị văn phòng và viễn thông 131,9 88,9 1,5
Thiết bị vận tải và máy móc khác 63,1 47,6 1,3
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
May mặc 35,8 20,8 1,7
Hàng tiêu dùng khác 59,7 33,5 1,8
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 422,7 277,6 1,5
Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Thương mại - 2001
Phần lớn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu Á đều là hàng công
nghiệp chế tạo, tổng kim ngạch lên tới gần 400 tỷ USD trong năm 2000, nhiều
hơn 60% về giá trị so với kim ngạch nhập khẩu tương ứng của EU từ Châu Á.
Về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (ví dụ như hàng may mặc và hàng
công nghiệp ch
ế tạo tiêu dùng các loại), nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu Á
cao hơn nhập khẩu của EU từ Châu Á từ 70 đến 80%.
May mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu mà các nước đang phát
triển xuất khẩu với khối lượng lớn, và đối với hầu hết các nước, Hoa Kỳ là thị
trường chủ yếu trước tiên. Với sức tiêu thụ khổng lồ, Hoa Kỳ luôn là thị

rất đa dạng và phong phú - Hoa Kỳ đã trở thành "miền đất hứa" cho bất kỳ
doanh nghiệp nào cũ
ng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn xuất khẩu
hàng hoá vào Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam chúng ta cũng đã trở thành bạn
hàng thương mại lớn thứ 44 của Hoa Kỳ và là nước xuất khẩu lớn thứ 38 vào
thị trường này, trong đó hàng dệt may xuất khẩu tăng rất nhanh. Dệt may là
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004
đạt 2,7 t
ỉ USD chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường này và tăng 5,56% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường tiêu
thụ lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng 4 dưới
đây:
Bảng 4: Xuất khẩu của Việt Nam.
Nước Năm 2003 Năm 2004 Tỷ trọng
Mỹ 4,5 5.5 22.4%
EU 3.4 3.4 13.8%
ASEAN 3 3.2 13.0%
Nhật 2.9 3 12.2%
Trung Quốc 1.7 1.9 7.7%
Úc 1.4 1.6 6.5%
Các nước khác 4 6 24.4%
Tổng số 20.9 24.6 100.0%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Bộ Thương mại - 2004
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
a. Những cơ hội.
Nhìn chung, kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là
rất khả quan và đã tác động tích cực đến phương thức sản xuất kinh doanh của

xuất khẩu số một của Việt Nam . Hoa Kỳ đang nhập trên 22% hàng xuất khẩu
của Việt Nam . Hoa Kỳ vừa là thị trường xuất khẩu số 1 vừa là thị trường xuất
siêu lớn nhất của Việt Nam.Các ngành kinh tế Việt Nam đang tạo được đà
phát triển mới như may mặc, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, hàng điện tử, thủ công
mỹ nghệ… BTA v
ừa ràng buộc, vừa làm cơ sở để Việt Nam bổ sung, điều
chỉnh và hoàn thiện toàn bộ hệ thống luật pháp của mình, làm cho hệ thống
luật pháp Việt Nam đồng bộ, thống nhất, ổn định và tương thích với hệ thống
luật pháp quốc tế hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán
hàng hoá giữa hai nước nói riêng và quốc tế nói chung dễ
dàng hơn. Hơn thế
nữa BTA sẽ tạo cho Việt Nam những bước đi trong hội nhập quốc tế vững
vàng, tự tin và hiệu quả hơn và khai thác tốt hơn khả năng của nền kinh tế
nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam sớm gia nhập W.T.O
. Việc áp dụng qui chế MFN (Most Favoured Nation) trong hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy xuất khẩ
u của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam giảm bình
quân từ 40 - 70% xuống còn 3-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã
tăng ngoạn mục: từ 50 triệu USD năm 2001 lên 2,5 tỷ USD năm 2003 và
2004. Ưu đãi lớn nhất của qui chế MFN là giảm và miễn thuế các sản phẩm từ
những nước chưa được hưởng qui chế MFN vào Hoa Kỳ chịu thuế xuấ
t -
nhập khẩu gần 6 đến 12 lần sản phẩm xuất khẩu của các nước được hưởng qui
chế này. Nhờ được hưởng quy chế MFN nên nhiều nước và lãnh thổ đang
phát triển ở Châu Á đã thành công trên còn đường phát triển kinh tế với tiến
độ rất nhanh, điển hình là Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan,… Việc
dành được quy chế MFN trong hiệp định BTA đã mở ra triển vọng cho Việt
Nam được hưở
ng quy chế GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa

hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như Eu với một kỷ lục chưa bao
giờ có kể từ khi Trung Quốc được gia nhập vào W.T.O cách đây 3 n
ăm. Hàng
dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang thống trị thị trường quốc
tế. Mức tăng trưởng mặt hàng này của Trung Quốc quá nhanh sau 1/1/2005.
Các loại áo sơ mi cotton và quần tăng 1.250% trong quý I/2005, đặc biệt là
quần cotton tăng 1.500%, đồ lót tăng 300%. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ
do Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt thâm nhập thị trường Mỹ và EU làm
cho hàng nghìn các doanh nghiệp, cũng như
công nhân các nước này phải
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
đóng cửa và nghỉ việc. Theo hiệp hội quốc tế các nghiệp đoàn tự do (ICFTU),
ngành dệt may thế giới đang đứng trước nguy cơ mất 40 triệu việc làm sau khi
chế độ hạn ngạch dệt may dỡ bỏ báo cáo của ICFTU cho rằng, việc xoá bỏ
hạn ngạch dệt may dẫn đến nhiều nước chuyên xuất khẩu hàng dệt may theo
hạn ngạch như: Bangladesh, Campuchia, Philipine,Việt Nam, Nam Phi,
Dominica, Goatemala và Morixơ… phải
đối đầu với cuộc cạnh tranh hàng dệt
may của Trung Quốc và Ấn Độ giá rẻ.
* Hạn ngạch (quota) có thể nói là vấn đề bức xúc nhất cho các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã bị
hạn ngạch khống chế ở mức 1,8 tỉ USD (tương đương với 400 triệu đơn vị sản
phẩm). Sức cạnh tranh thấp do bị áp
đặt hạn ngạch đã làm giảm từ 5-7% thậm
chí 10% khả năng xuất khẩu so với các nước đã dỡ bỏ hạn ngạch. Tình trạng
bị áp đặt hạn ngạch cũng làm cho xuất khẩu mặt hàng dệt may giảm xuống rõ
rệt: từ 1.824 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2003 giảm xuống còn 1.563
triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2004, giảm 15%. Như vậy, các nước
Trung Quốc, Ấn Độ, vừa không b

a sợi cũng là một rào cản cho các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Vì hiệp định đa sợi khuyến
khích các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may có nguyên phụ liệu được sản
xuất tại nước xuất khẩu, trong đó nguyên - phụ liệu đang là vấn đề nan giải
cho ngành dệt may Việt Nam, hiện tại ngành may Việt Nam đang phải nhập
khẩu từ
70 - 80% nguyên - phụ liệu từ nước ngoài. Mặc dù trong những năm
qua, chính phủ rất quan tâm đến phát triển diện tích trồng bông, nhưng do khí
hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp, nên diện tích và sản lượng bông
trong những năm qua, tuy có tăng nhưng không đáng kể. Đặc biệt, vụ bông
vừa qua, diện tích trồng bị thu hẹp, làm sản lượng giảm 20% so với những vụ
trước. Nguyên nhân là do người nông dân chuyển sang trồng cây khác, hạ
n
hán kéo dài đã làm nhiều vùng trồng bông mất trắng hàng nghìn hecta, không
cho thu hoạch. Còn phụ liệu trong nước cũng đã có một số nhà máy sản xuất
nhưng không đáng kể chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu cầu của ngành.
* Khó khăn nữa là trong việc chiếm lĩnh và giữ mặt hàng dệt may vào
thị trường Hoa Kỳ nếu Việt Nam chưa là thành viên của W.T.O cuối năm
2005 thì các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ sẽ rút đơn
đặt hàng của họ cho các thành
viên khác của W.T.O
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
* Năng lực quản lý, kỹ thuật sản xuất và đảm bảo xuất khẩu ổn định,
việc thực hiện liên doanh, hợp tác, liên kết trong sản xuất để giữ vững thị
phần hàng may mặc còn khó khăn.
3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ
Để thâm nhập thị trường rộng lớn này, công tác xúc tiến thương mại là
rất quan trọng và phải
được quan tâm ở cấp Nhà nước và từng doanh nghiệp.

khi đưa vào thị trường Mỹ tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam
được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70 xuống
còn 3-7%
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn
ngành 5 tháng đầu năm 2003 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 69,5% so với cùng kỳ
2002. trong đó riêng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt gần 730 triệu
USD, dẫn
đầu các thị trường. Tuy tốc độ may của Việt Nam chưa ổn định và
bền vững. Sang năm 2004 mặt hàng dệt may bị hạn ngạch khống chế nên mức
độ tăng trưởng của mặt hàng này đã bị giảm đáng kể, qua bảng 5 ta càng thấy
điều đó.
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Mặt hàng
Năm
2002 2003 2004 KH 2005
Dệt may 975 2500 2700 2800
Thủy sản 674 750 564 800
Giày dép 224 325 473 580
Dầu khí 179 209 250 250
Đồ gỗ 86 200 408 800
Rau quả 74 105 182 200
Cà phê 73 98 144 150
Máy thiết bị 27 97 112 150
Mỹ nghệ 12 21 27 50
Đồ nhựa 5 11 28 50
Hàng khác 100 200 380 400
Tổng số 2429 4500 5200 6200
Nguồn: Bộ Thương mại 6-2005

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
I. Câp visa theo thông báo hạn ngạch:
1 333 Tá 45,750 4,789 10.49% 40,952 859.557.39 179.15.USD/Tá
2
334/335

Tá 741,567 190,607
25.70%
550,960
22.996.333.67
120.65 USD/Tá
3
338/339

Tá 15.103.336 176,751 7,670,876
51.96%
7,255,739
308.407.328.76
40.2 USD/Tá
4 340/640 Tá 2.282.946 36,829 477,608 44.44% 1,268,504 56,274,325.79 57.56 USD/Tá
5 342/642 Tá 620.905 271,147 43.68% 349,708 14,229.633.26 57.47 USD/Tá
6
347/348

Tá 7.666.005 2,941,517
38.37%
4,724,488
189.421.413.79
64.4 USD/Tá
7 359/-

Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
Sự sút giảm này xuất phát từ nguyên nhân các nước thành viên tổ chức
thương mại thế giới (WTO) bãi bỏ quota cho nhau từ 1/1/2005, trong khi đó
Việt Nam vẫn chưa được hưởng chính sách này, Việt Nam vẫn chưa là thành
viên của WTO mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp và việc quản lý
và sử dụng quota của Việt Nam lại còn bất cập và kém hiệu quả.
Trước thực trạng khó khăn này, Bộ trưởng Bộ
thương mại Trương Đình
Tuyển mới đây một lần nữa gửi thư cho các doanh nghiệp dệt may, đề xuất
hai ý kiến, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quota:
Một là, cấp visa tự động cho các doanh nghiệp có năng lực sản xuất, có
hợp đồng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu cho các nhà phân phối lớn đối với
các Cat. thực hiện còn thấp trong 5 tháng đầu n
ăm.
Hai là, thu hồi quota của các doanh nghiệp mới thực hiện được dưới
35%, chuyển cho các doanh nghiệp khác có khả năng xuất khẩu, và chỉ cấp lại
khi những doanh nghiệp này có nhu cầu xuất khẩu thực sự. Thư của Bộ
trưởng Trương Đình Tuyển ngay lập tức đã gây nên một phản ứng khá mạnh
mẽ trong các doanh nghiệp dệt may. Điều khiến các doanh nghiệp cảm thấ
y lo
lắng là trong bối cảnh cạnh tranh thị trường khốc liệt, mà quota lại hạn hẹp và
khó khăn đến vậy, thì những phương án mà Bộ trưởng đề xuất liệu có đem lại
thuận lợi cho doanh nghiệp hay không? Sau sự kiện Liên Bộ Thương mại -
Công nghiệp cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng quota hàng dệt may
xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đã xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp có quota
nhưng chưa có nhu c
ầu xuất khẩu, thậm chí không xuất khẩu được, đã giữ để
bán lại cho các doanh nghiệp khác với giá cao, khiến cho thị trường mua bán
quota trở nên náo nhiệt và diễn biến theo chiều hướng xấu, không có lợi cho

ngạch chuyển nhượng của Cat này.
Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp có thể tự thương thảo để chuyển nhượng
quota cho nhau, nhưng do ý thức cộng đồng trong các doanh nghiệp còn kém
nên dẫn đến tình trạng trên. Trong 5 tháng đầu năm 2005, lượ
ng quota mà
toàn ngành dệt may thực hiện được chỉ đạt ở mức thấp, khoảng trên 30%.
Chính vì thế các chuyên gia dệt may cho rằng, việc thu hồi lượng quota của
các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện được dưới 35% theo đề xuất của Bộ
trưởng Trương Đình Tuyển, trong điều kiện quota vào Hoa Kỳ có hạn để tăng
cường hiệu quả sử dụng quota, tránh tối đa tình trạng ế
, đọng quota, là một
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
giải pháp hữu hiệu. Các chuyên gia cũng cho rằng cần thiết phải xử lý kịp thời
số quota chưa dùng đến của các doanh nghiệp này để giao lại cho các doanh
nghiệp có khả năng xuất khẩu.
Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cũng đề nghị các doanh
nghiệp dệt may nên thành lập mô hình liên kết chuỗi, có như thế mới phát huy
được hiệu quả sản xuất và xuất kh
ẩu của toàn ngành dệt may, và ông xin ý
kiến các doanh nghiệp về một số thay đổi trong điều hành hạn ngạch trong dệt
may xuất khẩu đi Hoa Kỳ trong đó có việc cấp phép XK tự động đối với một
số chủng loại hàng (Cat). Tuy nhiên, nửa tháng sau, chỉ có 47 thư phản hồi,
30 ý kiến ủng hộ và 10 ý kiến phản đối. Các ý kiến phản đối cho rằng, cấp
visa tự động sẽ d
ẫn đến khả năng doanh nghiệp xuất khẩu qúa số lượng và có
thể bị phá vỡ hợp đồng với khách hàng. Để khắc phục tình trạng này, Bộ
Thương mại đã có điều chỉnh nhất định và trước mắt xử lý cho 2 chủng loại
hàng dệt may (Cat). Trong thời kỳ cao điểm giao hàng. Những xử lý này được
thể hiện trong thông báo số 0716 TM - DM hướng dẫn thực hiện hạ

hưởng, doanh nghiệp chịu thiệt vẫn tiếp tục chịu thiệt. Tỷ lệ cung ứng quầ
n ở
2 Cat. 347/348 và 647/648 của Việt Nam cho thị trường Hoa Kỳ là khá lớn.
Nếu không cấp phép xuất khẩu tự động sẽ xảy ra tình trạng khê đọng hạn
ngạch, ảnh hưởng tới tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Đúng như ý
kiến của thứ trưởng Lê Danh Vĩnh về sự cần thiết phải cho phép các doanh
nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ
(trên
báo Thương mại thứ 6-5-2005) rằng:
Sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch
hàng dệt may xuất phát từ đặc điểm của hàng dệt may được thể hiện ở một số
vấn đề sau đây:
- Mặt hàng luôn thay đổi mẫu mã, thời trang, chủng loại, số lượng,
nguyên phụ liệu, tính thời vụ.
Thị trường dệt may bị khố
ng chế bởi người mua chứ không phải người
sản xuất, xuất khẩu nên người mua có quyền yêu cầu phải đáp ứng nhiều điều
kiện khác nhau.
Việc phân hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu năm trước là tiêu chí
phân phối cơ bản mà nhiều nước áp dụng (ở Việt Nam chúng ta có 84% tổng
hạn ngạch được phân phối theo thành tích). Trong khi đó, doanh nghiệp được
phân hạn ngạch theo thành tích năm trước, nh
ưng năm sau có thể do thay đổi
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
mẫu mã, đơn hàng nên không ký được hợp đồng, không xuất khẩu được, nếu
không cho chuyển nhượng, số hạn ngạch đó sẽ bị khê đọng.
Ta xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2005 trong bối
cảnh vẫn chịu hạn ngạch, trong khi các nước thành viên W.T.O đã được xuất
khẩu tự do. Do đó việc cho phép chuyển nhượng hạn ngạch sẽ tạo sự linh hoạt

, Trung Quốc khoảng 4,68-5,84 USD/m
2
và Indonesia 6,46-
7,84 USD/m
2
. Trước thực tế này các chuyên gia thương mại khuyến cáo các
Luận văn tốt nghiệp
SV : Vũ Thị Thanh Tâm
doanh nghiệp nên cân nhắc để giảm giá 5 - 10% nhằm thu hút khách hàng
hoặc phải đầu tư làm hàng chất lượng cao.
2. Phân tích những ưu, nhược điểm những mặt tồn tại của hàng dệt may
Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
* Những ưu điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị
trường Hoa Kỳ.
Hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ có những ưu điểm nổi b
ật như sau:
- Về hình thức hàng dệt may có ý nghĩa rất quan trọng đối với người
Mỹ. Là quốc gia đa sắc tộc, người Mỹ dễ bị kích thích bởi thị giác, thích cách
trình bày sinh động, nhiều hình ảnh…. đặc biệt họ rất chú ý đến cách ăn mặc,
cách trang phục… Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhạy bén nắm bắt
được tâm lý này của người Mỹ nên đã nhận thức được sự cầ
n thiết phải xây
dựng kế hoạch đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
kiểu dáng, mẫu mã và sử dụng nguồn nhân lực…v v ,để đáp ứng nhu cầu của
người Mỹ. Lấy Công ty May 10 là một điển hình, với 10-15 triệu sản phẩm
mỗi năm, hơn 6000 công nhân và 13 xí nghiệp thành viên, May 10 hiện là
một trong những doanh nghiệp lớn nhất của ngành may mặc Việ
t Nam. May
10 đã xuất khẩu 80% trong tổng số doanh thu hơn 450 tỷ đồng của mình và
hơn 1/2 kim ngạch đạt được là từ việc xuất hàng sang Hoa Kỳ. Từ những loại


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status