Tài liệu Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần II - Pdf 96

Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel
Phần II
Chương III - TRÍ TUỆ
Với trí tuệ, chúng ta nắm được chân lý cao, nhưng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy
lại tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể
hiểu biết được ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí
tuệ, chúng ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một
thế giới siêu giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính
ngoài chúng ta.
Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhưng quan
hệ toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý
thức. Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta
tưởng là ở ngoài ta.
Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tượng khách quan mâu thuẫn với nội dung
đối tượng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan.
Thế giới khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã,
và chính thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hegel đã đi thêm một bước nữa
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm.
Phê phán:
Lập luận biện chứng này là gì?
l) Thực tế trong lịch sử loài người, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế
giới khách quan bằng toán lý.
Nhưng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó
đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế
giới vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần
chủ quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhưng hoạt động tính toán của
chúng ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong
kinh nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính
toán chỉ là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình
lao động máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới
vật chất.

lịch sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản
ánh lịch sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất
hiện trong phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên.
Phương pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển
theo mâu thuẫn là một phương pháp rất đúng mà Hegel đã vận dụng trong phạm vi
duy tâm, một cách trái ngược, nhưng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã
bị xuyên tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hegel lại quan niệm là
quá trình phát sinh của ý thức tự ngã. Nhưng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy
trong phạm vi tinh thần với những khái niệm trừu tượng, thực tế Hegel đã diễn tả
những hình ảnh phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp
tư bản.
Chương IV - Ý THỨC BẢN NGÃ (tức là tự ý thức, B.T)
Có thể nói đây là chương nổi tiếng nhất của quyển Hiện tượng luận tinh thần.
Chương này được sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần:
Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã.
Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã.
Phần I gồm ba tiết:
1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn;
2 - Chiến đấu sống chết;
3 - Chủ nô và nô lệ.
Phần II gồm 3 tiết:
1 - Khắc kỷ;
2 - Hoài nghi;
3 - Tâm hồn gian khổ.
Phần thứ I phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình
chuyển biến của chế độ nô lệ. Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối
thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ
(tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do tính của con người. Theo Hegel, những
người theo đạo Gia-tô là những người có tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ được cứu
thế, nhưng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây

Theo Hegel, buổi đầu hai người gặp nhau, mỗi người tự tin tưởng ở mình và chỉ
tin tưởng ở mình thôi, chưa bên nào công nhận bên nào cả. Lúc đó, bên này còn
cho bên kia là một vật cần phải phủ định và tiêu diệt. Bên này tiêu diệt bên kia, vì
nó chỉ trông thấy có nó. Trong khi tiêu diệt bên kia thì tự nó cũng phải chịu cái
nguy hiểm là nó cũng có thể bị tiêu diệt, nghĩa là trong chiến đấu nó cũng có thể
chết. Cuộc đấu tranh của đôi bên là đấu tranh vì muốn được công nhận. Mỗi bên
phải tiêu diệt bên kia, đồng thời cũng có thể bị tiêu diệt. Có thế mới chứng minh
rằng mình mới xứng đáng được công nhận. Nói một cách nôm na, cuộc đấu tranh
đó là đấu tranh vì danh dự. Đấu tranh là đấu tranh sống chết, vì nó nhằm cái chết
bên kia, đồng thời chứng minh rằng mình không sợ chết. Nhưng đây xuất hiện
mâu thuẫn: nếu trong chiến đấu, một bên chết đi hoặc cả hai bên đều chết, thì
không còn ai để công nhận, vì bên kia đã chết rồi. Hoặc nếu cả hai bên chết thì hết
vấn đề. Đó là mâu thuẫn nội bộ mà bước đầu chỉ có thể giải quyết được bằng cách
một bên này công nhận một bên kia. Bên được công nhận tập trung ý nghĩa của ý
thức bản ngã, tức là ý nghĩa danh dự của con người. Bên được công nhận đó là chủ
nô. Bên phải công nhận thì nhận phần vật chất, biến thành nô lệ. Như thế là phần
tinh thần thì thuộc về chủ nô, phần vật chất thì thuộc về nô lệ. Nô lệ chịu làm nô lệ
cho chủ nô là đã công nhận phần tinh thần của mình ở bên kia tức là bên chủ nô
rồi. Còn bên chủ nô lệ là bên được công nhận thì sử dụng nô lệ như là vật thể của
mình.
3 - Chủ nô và nô lệ
Biện chứng pháp của chủ nô là bộc lộ mâu thuẫn trong con người chủ nô. Đối với
chủ nô, ý thức bản ngã là tinh thần, nó chỉ biết nó, nó coi vật thể tức thế giới vật
chất như là của nó. Nó phủ định thế giới vật chất bằng cách sử dụng nô lệ, bắt nô
lệ phải biến thế giới vật chất thành một thế giới cho nó có thể hưởng thụ được, tức
là thông qua người nô lệ nó phủ định tính chất khách quan của thế giới vật chất
trong quá trình hưởng thụ, làm cho vật thể không còn tính chất độc lập bên ngoài
mà chỉ có trong phạm vi mình hưởng thụ nó. Xét bề ngoài thì như thế, nhưng xét
bề trong thì cái gì cho phép chủ nô phủ định, hưởng thụ vật thể khách quan? Đó là
công trình lao động của nô lệ. Nhờ công trình lao động ấy mà vật thể khách quan

thiệu quá trình diễn biến trong phạm vi tinh thần, Hegel hoàn toàn không đếm xỉa
gì đến cơ sở thực tế của nó. Hegel đã trình bày quá trình diễn biến một cách hoàn
toàn trừu tượng, thành ra chỉ có trong tinh thần thôi. Do đó, Hegel không những
không biết gì đến cơ sở thực tế, mà thực ra lại đảo lộn ý nghĩa chân chính trong
tinh thần nữa. Lập luận của Hegel có một phần nói đúng, nhưng chính phần đúng
đó cũng bị đảo ngược. Đảo ngược như thế nào?
l) Trước nhất, ở chỗ nói lòng ham muốn là biểu hiện của ý thức bản ngã phủ định
vật thể bên ngoài, phủ định tính chất khách quan của vật thể, cho vật thể là của
mình, là mình. Ở đây, Hegel có mô tả trạng thái ham muốn trong tinh thần. Trong
lúc ham muốn, có thể cắt nghĩa là có phủ định tính chất khách quan của vật ta ham
muốn, có lôi nó về mình, nhưng trạng thái đó ở đâu ra? Phải chăng là ở quá trình
hoàn toàn duy tâm như Hegel trình bày? Thực tế, trước khi có lòng ham muốn thì
cũng đã có kinh nghiệm hưởng thụ. Nếu chưa có thì làm sao có ham muốn được.
Chỉ ham muốn cái đã từng hưởng thụ. Kinh nghiệm hưởng thụ, xét tới cùng, cũng
là xuất phát từ một quá trình vật chất, một quá trình sinh lý. Từ quá trình sinh vật
trong cơ thể, và trong những quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh, mới gây ra
những kinh nghiệm hưởng thụ, mới biết cái gì là hưởng thụ được. Trong tinh thần,
khi lòng ham muốn phủ định tính chất khách quan, độc lập của vật thể, cho nó là
mình thôi, thì nó cũng chỉ là lặp lại một quá trình đã có trong thực tế. Khi đã có
ham muốn thì mới phủ định tính chất khách quan của đối tượng ham muốn. Cái
mà Hegel cho là cơ sở của chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ là sự phản ánh quá trình vật
chất. Hegel vì không trông thấy cơ sở thực tế của ý thức ham muốn, thành ra đến
lúc chuyển lên vấn đề công nhận thì cũng không làm sao thấy được những lý do
thực tế đã đưa đến đó.
2) Hiện tượng chiến đấu sống chết thì có trong kinh nghiệm lịch sử thật. Chiến đấu
vì muốn được công nhận. Vì muốn được công nhận thì phải tiêu diệt bên kia, và tự
mình cũng nhận phần có thể bị tiêu diệt. Nhưng có phải chỉ vì muốn được công
nhận trong ý thức bản ngã của mình mà hai bên tiêu diệt lẫn nhau, chiến đấu với
nhau đến chết không? Trong tinh thần có trạng thái chiến đấu đó, nhưng nội dung
thực tế có phải như thế không? Trong lịch sử ta thấy rằng:

rất trừu tượng, tách rời khỏi quá trình đấu tranh tích cực của nô lệ chống chủ nô,
chỉ trông thấy phần huấn luyện con người của giai cấp nô lệ. Do đó mà nói rằng
chính công trình lao động trong cương vị nô lệ, tức quá trình lao động cưỡng bách,
đã tạo ra con người mới có sức cải tạo thiên nhiên thực sự. Điều đó có phần đúng,
nhưng trình bày trừu tượng như thế thì hình như chế độ nô lệ là một điều kiện tất
yếu để tạo ra con người có tài năng thiết thực. Như thế là Hegel đã duy tâm hóa
chế độ nô lệ, không biết rằng tuy trong lịch sử chế độ nô lệ có đóng vai trò tiến bộ
trong một giai đoạn nào đó, nhưng đây chỉ là do điều kiện lịch sử, tức là sự tan rã
của chế độ công xã nguyên thủy. Chế độ nô lệ chỉ tiến bộ trong điều kiện lịch sử
ấy, chứ không phải do sự cưỡng bách lao động mới tiến bộ, mới tạo ra con người
có tài năng. Sở dĩ lao động lúc đầu tiên phải cưỡng bách, là vì có thế mới nâng cao
mức lao động hơn cái mức ở chế độ thị tộc. Nhưng cưỡng bách nhất định không
phải là một bản chất của lao động. Vì duy tâm hóa điều kiện lịch sử này, nên cho
rằng cưỡng bách là một điều kiện để tạo ra con người có kỷ luật, có tài năng. Đấy
là điểm rất sai của Hegel. Thực tế, ta đã thấy trong những điều kiện lịch sử khác,
chế độ thị tộc có thể chuyển sang một chế độ không có áp bức bóc lột mà vẫn
không phải thông qua chế độ nô lệ. Thực tế, không phải là phải có áp bức bóc lột
người ta mới tạo cho con người có kỷ luật, tài năng. Lập luận của Hegel chính là
di tích của quan niệm thống trị cũ. Bề ngoài, Hegel hình như có đề cao giai cấp
mới, mà thực sự có đề cao thật, nhưng xét thực chất thì Hegel đề cao nó một cách
rất trừu tượng, rất duy tâm. Hegel đã đề cao công trình lao động của nô lệ với hình
thức cưỡng bách của nó, mà không phải đề cao công trình lao động của nô lệ trong
phần chống cưỡng bách ấy. Lối đề cao của Hegel cũng tựa như một số người cho
rằng có chế độ thực dân thì ta mới có một số kỹ thuật, mới học tập được một số
kiến thức. Như thế là đã phê phán chế độ thực dân trong phạm vi chế độ thực dân.
Đó là một sai lầm nguy hại. Chính Hegel vì đã đề cao công trình lao động nô lệ
trong phạm vi nô lệ, trong cương vị người nô lệ, thành ra không có giải pháp thực
tế. Nếu đã nhận giai cấp nô lệ là chân lý của giai cấp chủ nô, chủ nô có được cái gì
là nhờ nô lệ cả, thì sẽ không thể duy trì được mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ.
Nhưng Hegel không đi xa hơn kết luận tiêu cực ấy. Đến lúc cần một giải pháp tích


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status