Tài liệu Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần IV - Pdf 96

Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel
Phần IV
Chương V - Lý tính
Lý tính là ý thức bản ngã tin tưởng rằng mình là tất cả sự vật trong thế giới. Ở đây,
tư tưởng duy tâm của Hegel lên đến cao độ: ý thức chủ quan nhận thấy mình trong
tất cả sự vật.
Biện chứng pháp của lý tính thông qua 3 giai đoạn:
1 - Lý tính thực nghiệm,
2 - Lý tính thực tiễn gồm có 3 giai đoạn nhỏ:
a) Hưởng lạc và định mệnh;
b) Luật của lương tâm và tự cao điên cuồng;
c) Đạo đức và thời cuộc.
3 - Lý tính trong cái thực hiện của mình gồm có:
a) Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy;
b) Lý tính lập pháp;
c) Lý tính kiểm pháp.
Quá trình diễn biến của lý tính phản ánh quá trình đấu tranh giai cấp trong thời đại
tư sản đang lên.
1 - Lý tính thực nghiệm (tiếp thu kinh nghiệm)
Lý tính thực nghiệm là ý thức tin tưởng mình là mọi sự vật, trong thế giới chỉ có
mình thôi. Nó phát triển bằng tư tưởng thực nghiệm, tìm tòi mình trong tự nhiên,
vì tin tưởng trong tự nhiên chỉ có mình. Do đó mà phát triển khoa học thực
nghiệm.
Lòng tin tưởng của nhân loại vào mình đã thành lập trong quá trình phát triển của
khoa học tự nhiên, nhưng gặp mâu thuẫn khi chuyển lên vấn đề người: lúc nó đặt
vấn đề con người là gì? tư tưởng là gì (tâm lý học)? Khoa học tự nhiên quan niệm
người là một vật tự nhiên, nó là một bộ óc như vậy làm sao nó lại tư tưởng được
(nó tự nhận nó trong vật ấy được). Do mâu thuẫn ấy, ý thức lý tính chuyển sang
một lập trường mới: lý tính thực tiễn. Nó không thể nhận thấy nó trong tự nhiên,
cho nên nó phải tự thực hiện nó trong tự nhiên.
2 - Lý tính thực tiễn thông qua 3 giai đoạn:

c - Đạo đức và thời cuộc
Đạo đức không phải là lương tâm cá nhân, mà là lương tâm phải hy sinh cá nhân
thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đức tính chống lại thời cuộc, vì thời cuộc là xấu, thời
cuộc chỉ là một số cá nhân làm theo quyền lợi của họ. Ai hy sinh cá nhân thì phải
thắng. Nhưng trong lúc anh nói anh chống lại thời cuộc thì anh cũng chỉ làm một
số việc biểu hiện tài năng của anh, mà tài năng thì nó có nội dung khách quan của
nó. Quá trình phát huy tài năng là một quá trình khách quan không phải do hy sinh
cá nhân. Tài năng được thực hiện như thế nào? Thực tế thời cuộc tạo điều kiện cho
tài năng phát triển; tài năng cũng là một yếu tố của thời cuộc, cũng do thời cuộc
mà có. Cho nên nó không chống lại được thời cuộc. Đúng hơn, ý thức đạo đức cá
nhân thực hiện trong sự việc, chân lý của nó là sự việc nó không thoát khỏi thời
cuộc. Do mâu thuẫn đó, lý tính lại chuyển sang một hình thái cao hơn.
3. Lý tính trong cái thực hiện của mình
a - Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy
Cá nhân chỉ biết có mình thôi, không biết người khác, nhưng khi phát huy tài năng
thì mỗi cá nhân lại làm công việc chung. Công việc của nó làm có ý nghĩa tinh
thần: do đó gọi là giới động vật của tinh thần: mỗi sự nghiệp cá nhân là một bộ
phận của sự nghiệp chung; nó tưởng là nó làm cho nó thì nó đã làm cho tập thể,
nhưng thực tế thì nó lại cũng làm cho cá nhân nó. Mâu thuẫn đó Hegel kêu là lừa
dối. Nhưng mà trong quá trình mâu thuẫn ấy, chúng ta đi đến ý thức cái mà ta
nhầm chính là sự việc ấy đấy. Như thế, ý thức không phải là cá nhân, vì sự việc ấy
có ý nghĩa đại thể. Nếu đã nhận thức được điểm ấy, thì ý thức đặt quy luật cho thế
giới: đó là lý tính lập pháp.
b - Lý tính lập pháp
Đặt luật có giá trị phổ cập, nhưng cũng chỉ dựa vào cá nhân thôi, vì nó thấy nó có
cơ sở đặt luật cho mọi người. Điểm này Hegel nhắm luận lý cảm tính của
Rousseau[7], định ra luật pháp dựa vào cảm tính, cảm tính cho cái gì tốt là tốt, cái
gì xấu là xấu. Nhưng lại có mâu thuẫn, vì cảm tính mỗi người một khác, không thể
dựa vào cảm tính mà đặt luật pháp được. Nó chỉ có thể xem xét đặt luật này đúng
hoặc sai: lý tính kiểm pháp.

cuối cùng đức tính phải đầu hàng thời cuộc. Hegel đã tách rời cơ sở thực tế. Cả
công trình xây dựng lý tính trên cơ sở duy vật lại được trình bày một cách duy
tâm: trình bày để chứng minh chủ nghĩa duy tâm; biện chứng pháp của Hegel đã
đảo ngược cái ý nghĩa chân chính của phong trào cách mạng tư sản: ý nghĩa duy
vật.
Mâu thuẫn căn bản, đứng về mặt duy tâm mà Hegel nêu ra trong quá trình diễn
biến của lý tính là mâu thuẫn giữa sự tin tưởng của bản ngã (ý thức cho mình là tất
cả thế giới khách quan) và mặt khác là sự thực rằng ý thức bản ngã vẫn là cá nhân.
Mâu thuẫn là: cái mà nó tin tưởng thì thực tế nó chưa thực hiện được. Từ mâu
thuẫn đó, nó chuyển lên hình thức bản ngã đại thể tức là cái tôi đại thể. Hegel gọi
cái tôi đại thể đó là tinh thần. Mâu thuẫn trên thực tế ở đâu ra?
Trong thời tư bản chủ nghĩa, ngay trong lúc đang lên của nó đã có mâu thuẫn giữa
cá nhân chủ quan và đại thể khách quan. Nhưng mâu thuẫn đó không phải xuất
phát từ tinh thần như Hegel tưởng.
Theo Hegel, trong lý tính thực nghiệm có mâu thuẫn ở chỗ nó tưởng nó có thể tìm
thấy được nó trong thế giới vật chất, nhưng thực tế nó không tìm được. Do đó,
phải chuyển sang một lập trường mới là lý tính thực tiễn.
Hegel có phản ánh một phong trào tư tưởng có thực, như sau: một mặt thì phát
triển khoa học thực nghiệm, một mặt lại phê phán khoa học thực nghiệm, cho khoa
học thực nghiệm chỉ nắm được một số quy luật chết, không nắm được bản chất
con người. Chỉ trong hoạt động thực tiễn, mình mới thực hiện được tính chất nhân
bản. Ví dụ: trong quyển Faust của Goethe[11] đã biểu hiện một tinh thần chán nản
đối với khoa học, và đòi hỏi một hoạt động thực tiễn. Như câu: «Khoa học thì
xám, nhưng cây của đời sống bao giờ cũng xanh». Đó là một xu hướng đã phát
triển nhiều trong tư tưởng tư sản. Với tư tưởng này, thì một mặt phát triển khoa
học, nhưng một mặt lại phê phán khoa học, đi vào hoạt động chủ quan chống lại
khoa học.
Sở dĩ như thế, vì thực tế khoa học máy móc không thỏa mãn được những nhu cầu
của người ta, thành ra nó bắt buộc người ta phải tìm con đường giải phóng bằng
cách phản lại khoa học, nó đòi hỏi cái mà Goethe đã gọi là «cây sống xanh tươi».

thì lại có tính chất tư hữu, cá nhân. Do đó, trong phương thức sản xuất mới đó tuy
có cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất, nhưng lại không có cơ sở để tổ chức
quan hệ sản xuất cho hợp lý. Nó có một phần nào có tổ chức hợp lý, nhưng đó chỉ
là trong phạm vi đơn vị cá thể, chứ xét toàn bộ xã hội thì nó không có cơ sở để tổ
chức hợp lý được, vì nguyên lý của nó là cá nhân tự do cạnh tranh. Do đó mà nó
đặt vấn đề giải quyết trên cơ sở cá nhân, và hoạt động thực tiễn có tính chất cá
nhân chủ quan. Vì có tính chất cá nhân chủ quan nên nó mới đối lập với khoa học.
Đó là mâu thuẫn căn bản trong xã hội tư bản (hoạt động thực tiễn mâu thuẫn với
hoạt động khoa học). Do mâu thuẫn căn bản đó mới xuất hiện trong tinh thần hiện
tượng chán nản đối với khoa học, đi tìm chân lý ở đời sống thực tiễn chủ quan.
Xét lại những hiện tượng hoạt động cá nhân chủ quan mà Hegel đã mô tả, như
hiện tượng chủ nghĩa hưởng lạc, mâu thuẫn trong chủ nghĩa hưởng lạc, luật của
nhân tâm (lấy lương tâm cá nhân để cải tạo xã hội), đạo đức hy sinh cá nhân
nhưng vẫn trên lập trường cá nhân là những hiện tượng có thực mà Hegel mô tả
đúng đắn phần lớn, nhưng những hiện tượng đó xuất hiện trên một cơ sở xã hội
thực tế, chứ không phải xuất hiện do một biện chứng pháp tinh thần. Cơ sở thực tế
đấy chính là điều kiện hoạt động trong các giai đoạn của cách mạng tư sản.
Ở giai đoạn còn non, hoạt động đối lập có tính chất cách mạng tư sản ở chỗ nó lấy
hưởng lạc cá nhân làm trung tâm để chống lại những ràng buộc của phong kiến. Ở
Âu châu vào thế kỷ XVII, XVIII, có cả một phong trào như thế. Ở Việt Nam, tuy
yếu tố tư bản chủ nghĩa chưa phát triển bằng Âu châu hồi đó, nhưng những tác gia
như Hồ Xuân Hương cũng đã đi theo hướng đó.
Đến mức cao hơn, lúc giai cấp tư sản thấy có đủ sức cải tạo xã hội (không phải
chống lại xã hội cũ bằng thỏa mãn cá nhân nữa), thì mới lấy luật nhân tâm để
chống lại xã hội cũ.
Đến giai đoạn thứ ba tức là lúc nó đặt vấn đề hy sinh cá nhân để cải tạo xã hội.
Hiện tượng đó có thực trong xã hội (như lúc Cách mạng Tư sản Pháp tiến lên nắm
chính quyền), nhưng hiện tượng đó vẫn là do một cơ sở thực tế: lúc tư sản lên cầm
chính quyền, cần hy sinh cá nhân để nắm chính quyền, nhưng chưa ổn định được
tổ chức chính quyền. Do đó mà nó còn đối lập với thế giới, chủ quan vẫn đối lập

thức sản xuất tư sản, để thay vào một phương thức sản xuất mới là phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hegel vì đặt vấn đề trong tinh thần nên không giải
quyết được. Vì nếu chỉ thấy mâu thuẫn ấy trong tinh thần, thì cũng chỉ giải quyết
trong tinh thần, tức là đặt vấn đề bản ngã trong tinh thần là bản ngã đại thể, bản
ngã của mọi người. Đó là một giải pháp hoàn toàn duy tâm. Từ đó, Hegel đã
chuyển lên hiện tượng tinh thần, cho rằng tinh thần là bản ngã đại thể, thực tế đã
nắm được đối tượng khách quan, thấy rằng chủ quan là khách quan.
Trong thực tế lịch sử, có hiện tượng ấy thực. Đó là giai đoạn xây dựng chế độ tư
sản, mỗi người với tính chất chủ quan cá nhân của mình, chống lại chế độ cũ, xây
dựng một lý tưởng có giá trị đại thể. Nhưng một khi xây dựng được rồi thì nó củng
cố Nhà nước tư sản, bằng tư tưởng rằng: bây giờ không có đối lập nữa giữa chủ
quan và khách quan, không có đối lập giữa cá nhân và xã hội nữa, vì xã hội cũ đã
bị tiêu diệt. Bây giờ trong xã hội mới, chủ quan là khách quan, lý tưởng chủ quan
đã được thực hiện rồi, mọi người đều là một trong xã hội mới ấy. Đó là tư tưởng
chính trị của giai cấp tư sản lúc đã nắm được chính quyền. Họ muốn dung hòa mọi
mâu thuẫn trong một lý thuyết bình đẳng có tính chất hình thức. Chính đó là cái
mà Hegel đã gọi là tinh thần.
Hegel đưa vấn đề tinh thần ra với danh nghĩa giải quyết mâu thuẫn giữa chủ quan
và khách quan; nếu xét cơ sở thực tế của nó, thì ta thấy cách đưa ra như thế thực tế
là nhằm xóa nhòa những mâu thuẫn mới, mặc dù có giải quyết mâu thuẫn cũ. Chỗ
nó tiến lên tinh thần là chỗ nó che lấp những mâu thuẫn mới của thực tế. Hegel lấy
hiện tượng dùng để che lấp đó làm chân lý. Đó là những cái mà tư sản đặt làm lý
tưởng để che lấp những mâu thuẫn mới trong thực tế. Chủ nghĩa tinh thần của
Hegel về nhà nước và xã hội đã có rất nhiều ảnh hưởng, vì nó biện chính đề cao
nhà nước tư bản, đồng thời nó cũng biện chính cho nhà nước của chủ nô cũ. Nó
biến nhà nước ấy thành tinh thần, thành chân lý, để dung hòa mọi cá nhân trong xã
hội, dung hòa cá nhân và xã hội. Có thể nói, sau này trong thế kỷ XIX, thế kỷ XX,
mọi chủ nghĩa đề cao nhà nước mà không xét đến tính chất giai cấp của nhà nước
ấy, đề cao nhà nước một cách chung chung (tức nhà nước cũ) đều bắt nguồn từ
chủ nghĩa nhà nước của Hegel, cái mà Hegel gọi là tinh thần.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status