Tài liệu Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel - Pdf 96



Triết học cổ điển Đức
từ Kant đến Hegel Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel
Phần I
Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là thành tích cao nhất của tư tưởng cận đại
trước Marx. Triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh,
kinh tế học Anh, đó là ba nguồn gốc chính của chủ nghĩa Marx.
Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hegel
Marx lấy lại của Hegel phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp
biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ
Marx thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong biện chứng
pháp của Hegel đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là
cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến
chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Hegel đã vận dụng phương pháp nêu
mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải
thấy rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một
trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hegel lại cho rằng nguồn gốc mâu
thuẫn là hoạt động của tinh thần.

phạm vi nó được phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con người.
Còn phần hoạt động thì chủ nghĩa duy vật cũ chưa nắm được. Vì vậy nó chỉ được
đề cao trong phạm vi tinh thần, duy tâm. Nhưng tương đối với điều kiện lịch sử
lúc bấy giờ, việc đề cao này cũng đã là một bước tiến bộ. Vì lao động tinh thần
được nêu lên đó cũng phản ánh được phần nào phương thức sản xuất mới, và thực
ra nó cũng bắt nguồn từ lao động thực sự.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm
về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động
xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.
Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của
phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do
sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản
ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ
là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới
phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin
tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt
đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn
cái thế giới mới, Fichte
[2]
đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte
nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây
dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào
khác.
Fichte đã đi thêm được một bước trên con
đường xây dựng phương pháp biện chứng.
Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động
sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái
«tôi» và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là
một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới

mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ tư bản trước kia còn là lý
tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một cách lung tung.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó, và xây dựng một
chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu cầu mới đó được phản ánh
trong triết học của Hegel.
Triết học của Hegel vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức
là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn.
Phương pháp của Hegel phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là
trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó
một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hegel lại nói rằng quá trình phát triển vật
chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở
bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo
ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng
tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh
thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động
thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là ở chỗ đó.
Nội dung: TRIẾT HỌC HEGEL
Tác phẩm Hegel có 2 cuốn chủ yếu:
1. Hiện tượng luận của tinh thần
2. Luận lý học.
Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tượng của tinh thần và cuốn dưới nói
về hệ thống phạm trù. Nhưng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu
tượng như của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý
của Hegel không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được
và trình bày theo quá trình biện chứng của nó, nhưng trước khi đi đến trình độ đó,
phải thanh toán những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái
niệm, chưa thực hiện lý luận triết học. Hegel phê phán những chủ nghĩa triết học
trước bằng cách coi những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông
ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng
thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong

thái độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối
tượng trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái
đại thể. Khi tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút,
v. v Vậy quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.
Kết luận là ý thức cảm giác tưởng là nắm được một cá biệt rất là vững chắc.
Nhưng thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhưng nó không nắm được cái mà nó phải nắm
là cái đại thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác - chủ nghĩa kinh nghiệm
- chống lại chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không
do kinh nghiệm trực tiếp mà nắm được, mà phải do khái niệm mới nắm được.
Hegel phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật.
Phê phán:
Lập luận này nổi tiếng vì nó thanh toán chủ nghĩa kinh nghiệm từ bên trong. Bước
đầu thì công nhận nó, nhưng phân tích thì thấy nó tự mâu thuẫn với nó. Biện
chứng pháp Hegel nêu mâu thuẫn nội tại trong khái niệm.
Nhưng nói rằng tôi không nắm được cái này, bây giờ, ở đây, thế thì giả sử rằng
chúng ta đã có một ý thức hiểu biết cao hơn, cho phép chúng ta phê phán cảm
giác.
Chính Hegel cũng phải nhận điều đó. Lập luận của Hegel là lộn ngược: cái trước
đi sau, cái sau đi trước, nói rằng phải có cái đại thể rồi ta mới có cái cá thể. Nhưng
làm sao ý thức tự nó cảm giác có thể tự phê phán được? Muốn phê phán thì phải
có cái cao hơn ý thức cảm giác, vì tự nó thì ý thức cảm giác bao giờ nó cũng ở
trong phạm vi cá thể. Ít nhất ta phải có cái khả năng định nghĩa rồi thì chúng ta
mới biết cái này, ở đây, bây giờ là tất cả cái này, ở đây, bây giờ. Do đó chúng ta
mới phê phán được. Hegel lại cho rằng chính cái ý thức cảm giác tự nó phê phán
nó.
Đi sâu hơn trong lịch sử tinh thần, chúng ta đã có lúc chỉ có ý thức cảm giác. Đến
lúc nào đó chúng ta mới nắm được đại thể. Từ ý thức cảm giác đến khái niệm đại
thể, phải qua một quá trình. Trong đời sống động vật, con vật chỉ nắm được cái
trước mắt thôi. Đến lúc có kỹ thuật sản xuất, chúng ta mới có một phương thức
hoạt động nhất định được lặp lại nhiều lần, do đấy chúng ta nắm được cái đại thể.

Chương này là một lập luận chứng minh rằng chân lý không do cảm giác hay tri
giác mà do trí tuệ. Nó nhằm đánh đổ chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật.
Nhưng trong nội dung chân chính của nó có phải là nó đánh đổ duy vật không? Có
phải tri giác trong quá trình mâu thuẫn tinh thần tự nó phủ định nó mà lên trí tuệ
không? Sự thực Hegel đã phản ánh một sự thực. Trong lịch sử tinh thần một lúc
nào đấy, người ta đã định nghĩa thực tế khách quan bằng những quan hệ toán lý.
Bắt đầu từ văn hóa phục hưng, người ta đã không định nghĩa bằng thuộc tính tri
giác mà bằng những quan hệ toán lý.
Sở dĩ khoa học cận đại đã phải định nghĩa thực tế khách quan bằng toán lý vì trong
thực tế gặp nhiều mâu thuẫn. Nếu chỉ dựa vào thuộc tính thì không thể đi đến một
hệ thống duy lý.
Hegel đã phản ánh một nội dung lịch sử có thật. Nhưng vì đâu có sự chuyển biến
từ tri giác lên trí tuệ, bắt đầu thời khoa học phục hưng.
Những mâu thuẫn ấy không phải do tinh thần mà do thực tế biến chuyển của cơ sở
sản xuất. Với tổ chức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những công trường thủ
công, chính cái đối tượng là những vật liệu, những sản phẩm được sắp xếp theo
những quan hệ của nó; tổ chức sản xuất không nhằm sản xuất một vật thể với
thuộc tính này hay thuộc tính kia, nó phải phối hợp vật này hay vật kia trong một
quá trình biến chuyển cơ giới.
Ví dụ như dệt vải: nếu theo kiểu thủ công, nó có những phường kéo sợi, phường
nhúng sợi, chải sợi, nhuộm, dệt Mỗi một phường ấy nhằm một sản phẩm nhất
định, một số thuộc tính nhất định, chứ nó không nhằm quan hệ giữa các sản phẩm
từ trình độ này lên trình độ khác. Trái lại, ở công trường nó có trải qua một số
trạng thái kế tiếp nhau một cách duy lý. Quá trình sản xuất được theo những quan
hệ giữa trạng thái này với trạng thái kia.Vấn đề: từ dây thép đến cái đinh phải qua
một số hình thái nhất định.
Chính sách sản xuất ấy cung cấp một hiểu biết theo trí tuệ. Đấy là nguồn gốc khoa
học cận đại. Hegel phản ánh một cách trừu tượng quá trình sản xuất ấy. Do tính
chất trừu tượng hẹp hòi nên ý nghĩa biện chứng pháp đã bị đảo ngược. Ý nghĩa đó
là quá trình thay đổi vật chất quy định hình thái ý thức. Hegel chỉ thấy cuộc biến


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status