Tài liệu Đề tài " Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc " doc - Pdf 97


TRƯỜNG
KHOA…………………… BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI

Khu kinh tế cửa khẩu và tác
động của nó đối với việc phát
triển vùng Đông Bắc
LuËn v¨n tèt nghiÖp1

Phần I: KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG BẮC

I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu:
1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong
một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung
Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù
hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông

khẩu biên giới, trong đó các hoạt động trao đổi thương mại là một trong
những yếu tố cấu thành. Trong vòng hơn một thập kỉ vừa qua , nội dung
của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và trở thành các hoạt động
hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn. Trong đó, các
hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn bán, trao đổi
hàng hoá thông thường mà còn bao gồm cả các hoạt động hợp tác kỹ thuật,
xuất và nhập khẩu dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới, các
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của phía bên kia biên giới, buôn bán các
trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch qua biên
giới, v v… Như vậy, có thể trao đổi hàng hoá đơn giản thành các hoạt
động hợp tác sản xuất kinh doanh. Tại một số nước (như Trung Quốc, Thái
Lan) xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng và trở thành hướng đi chính,
dẫn tới việc thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, hoăc thành lập các
khu hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế
qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước
láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế cho các nước này. Sơ lược có thể
đưa ra bốn lợi thế như sau: Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị
trí địa lý, khoảng cách nối liền qua biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao
thông vận tải và liên lạc; các vùng biên giới lại thường là các vùng có
nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa dạng, là những tiền đề tốt để phát
triển thương mại và du lịch. Thứ hai, khu vực các cửa khẩu biên giới trên
bộ hiện còn chưa phải đối mặt với cạnh tranh thương trường ở mức gay gắt
như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải, mà chỉ là một thị trường mới
LuËn v¨n tèt nghiÖp3

mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau. Thứ ba, các nước


4

định về miễn thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi gữa các
nước thành viên, và thậm chí có thể làm tiền đề cho một liên minh thuế
quan về sau.
- Các đặc khu kinh tế (như khu chế suất, khu công nghiệp tập trung)
được áp dụng tại nhiều nước Đông Á và Đông-Nam Á trong vài thế kỉ gần
đây, và ở Việt Nam hiện nay, cũng là một trong những hình thức đặc thù
này.
Yếu tố chính qui định sự khác biệt về mức độ hợp tác và các hình
thức được lựa chọn là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các
nước đang thực hiện liên kết. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố
quyết định sự cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định hình thức này
hay hình thức kia sao cho phù hợp hơn và có hiệu quả hơn.
Do đó, thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của
liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình kinh tế gắn liền với
cửa khẩu, cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi
không gian và thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới
phát triển… sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu. Vì vậy, có thể hiểu khu
kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có
dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế
chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu
quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Hay khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng
lãnh thổ bao gồm một hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho
áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội
nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước, tạo nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa phương có cửa

việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hóa mậu
dịch trên thế giới và khu vực… Việc cho phép tiêu thụ hàng hoá tại thị
trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản
xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích
cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu.
LuËn v¨n tèt nghiÖp6

- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ
kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao,
gồm nghiên cứu - triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ
có liên quan, có ranh giới địa lý xác định được hưởng một số chế độ ưu tiên
nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết
lập một chế độ ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
thành lập. Chế độ ưu tiên này được hình thành nhờ một loạt các điều kiện
ưu đãi nhất định (như được miễn giảm các loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế
quan và ngoại hối…), nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh
hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là
ba loại của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát
từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của
chúng đối với nền kinh tế. Qua các khái niệm trên có thể thấy một số điểm
giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các loại hình kinh tế trên
là:
- Điểm giống nhau, trước hết về tư cách pháp nhân, chúng được
thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và được
hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ hoặc chính quyền địa

- Các hoạt động ở khu vực phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để
không làm tổn hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi
trường.
- Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng
có lợi.
- Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu
vực nhằm tạo ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên.
- Tìm kiếm các các yếu tố tương đồng, tìm kiếm và hướng tới các vị
trí mà ở đó có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về
nguồn lực, về trao đổi hàng hoá.
- Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động hoặc có thể
xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, vị trí dễ nảy sinh mâu thuẫn.
1.2. Một số mô hình không gian:
LuËn v¨n tèt nghiÖp8

Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình tốt, một mặt giảm tập trung
cao về biên giới, đồng thời là nơi sử dụng hàng hoá nhập khẩu và tạo ra
hàng xuất khẩu dựa trên cơ sở lợi thế về mặt giao thông. Để đáp ứng về
điều đó các bên phải có tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, hoặc liền
bờ biển, ngoài ra trên các tuyến giao thông đó cần hình thành các, khu công
nghiệp, đô thị, bến cảng ở mỗi bên với cự ly hợp lý, có mối liên hệ kinh tế
mật thiết với khu kinh tế cửa khẩu. Mô hình này gần như đã tồn tại một
cách “tự nhiên” trong lịch sử, từ một lối mòn dân chúng qua lại sau đó nhu
cầu trao đổi tăng giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Có thể cho rằng
mô hình này là cơ sở của các mô hình khác. (hình 1a)
Mô hình quát giao nhau ở cán:
là mô hình dựa trên hai bên có hành

cán
LuËn v¨n tèt nghiÖp10 1c. Mô hình quạt giao ở cánh 1d. Mô hình lan tỏa
1.3. Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu:
Là mô hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả
năng giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân
bay bến cảng đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các
nước sẽ bố trí các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương.
Mô hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi
cho việc kiểm soát các phương tiện, người và hàng hoá qua lại, trong đó
cần có sự phối hợp hỗ trợ về các tiện ích công cộng như điện, nước, chiếu
sáng, cây xanh, môi trường. Ngoài ra cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú của
người cũng như của hàng hoá và các phương tiện quá cảnh, Có hai mô
hình cụ thể sau:
- Mô hình đối xứng: là mô hình được xây dựng theo định hướng
phát triển của mỗi bên và thoả thuận quốc gia, mỗi bên xây dựng khu kinh
tế cửa khẩu độc lập, cạnh tranh phát triển, do vậy nó có nét đối xứng mỗi
bên có kết cấu hạ tầng giống nhau do đó chúng có những điểm bố trí tương
đồng với nhau về kết cấu bao gồm: khu dân cư, khu thương mại, khu sản

Các cửa kiểm
soát
Khu hành chính Khu thương
mại và dịch
vụ

Đường phân cách

Khu sản xuất
(công ty liên
doanh đầu tư
phát triển và
kinh doanh hạ
Các cửa kiểm
soát
Khu hành chính Khu thương
mại và dịch
vụ
LuËn v¨n tèt nghiÖp12

tầng thuê đất)
2. Mô hình thể chế.
2.1. Nguyên tắc chung:
- Tôn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia,
khu vực trên cơ sở bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và cùng có lợi.
- Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết

(thôn, tổ dân phố) được chính quyền Trung ương phân cấp quản lý theo
hướng khuyến khích phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu
hành chính riêng như các đặc khu kinh tế vì vậy khu kinh tế cửa khẩu là
vùng giao thoa chính sách.
2.3. Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý :
Một trong những vấn đề được mọi nguời quan tâm và lo ngại đó là
vấn đề trong việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải
có sự công khai công việc và thống nhất trong các đơn vị làm dịch vụ về
vấn đề thu lệ phí.
Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý
khác nhau nhưng đều theo nguyên tắc một cửa cho các hoạt động đầu tư và
thương mại.
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà chính phủ
nước sở tại phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý có qui chế riêng.
- Khu thương mại tự do trong đó có khu công nghiệp tự do cấp tỉnh
hoặc cấp quốc gia, khu vực này không có dân cư, hàng hoá vào được miễn
thuế, việc chuyển đổi hàng hoá như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp,…
không chịu sự giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải
lập sổ sách chịu sự giám sát của hải quan, phải nộp thuế.
Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó có khu thương mại tự do
như trên, có dân cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng
thuận lợi có sân bay, bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng
lãnh thổ rộng, thiết chế hành chính riêng.
3. Mô hình của một khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
LuËn v¨n tèt nghiÖp14

Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa. Xu hướng tự do hoá thương mại,

m
soát
nhập
khẩu
vo
n

i
đ

a,
Mi

n
thuế
nhập, kê
khai nộp
phí
Khuy
ế
n
khích
xuất
khẩu, kê
khai,
nộp lệ
phíVo tự

nhập, kê
khai nộp
phí

Khu kinh t
ế
c

a kh

u n
ư

c
Khu kinh t
ế
c

a kh

u n
ư

c
LuËn v¨n tèt nghiÖp15

III. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu


16

hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hoá chậm
phát triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước
mắt của nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa
dạng hóa của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới
vừa qua. Và cũng chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình
thành một mô hình phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh
tế cửa khẩu tiềm năng của địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà
đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất
kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng
của Chính phủ. Bên cạnh đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá
trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu KTCK còn góp phần làm tăng
nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự phụ thuộc, trông chờ vào
ngân sách Nhà nước. Hơn nữa còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước ở
cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ đầu tư cho
tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới thông
qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí đồng
bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường,
qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam
với kinh tế thế giới, nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần

có khu KTCK nó còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá, hình thành
những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …
3. Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc
LuËn v¨n tèt nghiÖp18

đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình
độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra
những yếu tố để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như
ngoài nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất
khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân công lao động góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối với phát triển xã hội
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu
cũng thực chất là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu
phát triển xã hội là nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK
còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của
nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã
hội, hình thành nhiều trung tâm tạo việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn
minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ
thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã hội rất hiệu quả, đặc biệt là các
vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều khó khăn.
5. Đối với an ninh quốc phòng
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm
ăn, sinh sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới

Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đã bắt đầu được khai phát một cách
tích cực, khu vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có
khoảng cách xa với các vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối
mở cửa và những biến đổi trong phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới
đã buộc nước này phải điều chỉnh và hoàn thiện chính sách này theo hướng
đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa để phối hợp phát triển với các
vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính sách phát triển mới ra
đời: chính sách cải cách mở cửa không chỉ dựa vào nguồn tài chính của
chính phủ trung ương mà còn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa phương,
xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu
vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội
dung không giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực.
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu
thụ hàng công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành
LuËn v¨n tèt nghiÖp20

công nghiệp Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất
khẩu hàng hóa, lao động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng
thiếu hoặc khan hiếm ở Trung Quốc) cũng là một trong số những chính
sách mới kể trên. Tư tưởng chủ đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa
vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp tác kinh tế trực tiếp với các nước
láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức và nhiều con đường, tuỳ
điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó.
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan
của quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường
biên giới với nhau. Đây cũng là một trong những hình thức thương mại

Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh
việc trao đổi hàng hóa với Liên Xô (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993,
lầm đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức
trao đổi hàng) đạt mức cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn
của thị trường cùng với việc xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất
lượng đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn
định lại trật tự trong HĐBM vào năm 1994.
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay)
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ
Trung Quốc đã ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào
năm 1996. Nhờ việc ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối
với HĐBM. Trong thời gian điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm
sút nhưng sau đó được phục hồi từ năm 1999 và duy trì được mức độ tăng
trưởng ổn định sau năm 2000.
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của
Trung Quốc biến động theo mô hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim
ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ
USD, chiếm tới 2,63% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Tuy trong thời gian sau đó (1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm
1999, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được
quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng trưởng này tiếp tục được duy trì đều
LuËn v¨n tèt nghiÖp22

đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn 35% so với năm 2002).
chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Các hàng hóa
xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc là các sản

các hoạt động này được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại
chính thức và thương mại phi chính thức. Thương mại biên giới chính thức
là các hoạt động biên giới theo các quy định của luật pháp (các quy chế,
hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai chính phủ ký kết). Các hoạt
động này thường phải chịu những khoản thuế quan nhất định, được ghi
chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền về xuất nhập
khẩu.
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao
lưu thương mại qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các
thủ tục hải quan, thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương
mại, hay trốn thuế hải quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc
trốn tránh các thủ tục hải quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ
dàng nhờ các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân
chúng ở hai bên đường biên.
Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan
là các hàng tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy
và phụ tùng. Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các
hàng lương thực thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện
gia dụng, rượu mùi, thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính,
hiện nay kim ngạch thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến
trên 1,0 lần so với thương mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đôi
thương mại chính thức giữa Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với
Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa được buôn bán theo con đường
phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm được chế tạo từ những
nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường biên giới với Thái
Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …).
LuËn v¨n tèt nghiÖp24

mại
1988

1882 264 15 13 797 -21 5684 1400
1989
2793 459 91 -87 1468 -408 8799 3071
1991
2904 -254 …. …. 2671 1693 …. ….
1992
2770 412 2791 -2053 4069 -867 50035 …
1993
4128 608 3700 24 5468 1264 54252 ….
1994
6511 2603 3914 477 7945 2781 66261 31272
1995
10284 6060 6398 4 5906 3602 38779 24265
1997
12893 8893 8271 477
Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và
phong phú, với sự thông thoáng và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan.
Nhờ có sự ưu đãi hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã
càng tạo ra sự hấp dẫn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và
du lịch đang trong đà tăng trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc
gia trongviệc phát triển quan hệ thương mại biên giới, theo hướng khai thác
tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm
các mô hình kinh tế linh hoạt hơn với các chính sách cởi mở nhằm tăng
cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước, mở rộng và phát triển
nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình thành một số vùng
kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh hơn để lôi kéo


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status