Tiểu luận Khái niệm, bản chất, đặc trưng của thỏa ước lao động tập thể - pdf 13

Download Tiểu luận Khái niệm, bản chất, đặc trưng của thỏa ước lao động tập thể miễn phí



Mục Lục
1. Khái niệm về thỏa ước lao động tập thể: 1
2. Bản chất của thỏa ước lao động tập thể 2
3. Đặc trưng của thỏa ước lao động tập thể. 4
a. Tính tập thể của thỏa ước lao động tập thể. 4
b. Những thỏa thuận có lợi cho người lao động trong thỏa ước lao động tập thể luôn được Nhà nước khuyến khích. 5
c. Thỏa ước lao động tập thể phải được thể hiện bằng hình thức văn bản. 5
d. Thỏa ước lao động tập thể phải được đăng lý với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 6
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38990/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

1. Khái niệm về thỏa ước lao động tập thể:
Tùy theo từng thời kỳ, từng nơi khác nhau mà thỏa ước lao động tập thể có những tên gọi khác nhau như: hợp đồng tập thể, thỏa ước tập thể, thỏa ước lao động tập thể... Tùy nhiên thì cách hiểu thuật ngữ “Thỏa ước lao động tập thể” theo pháp luật quốc tế cũng như quốc gia được đánh giá là thống nhất.
Theo khuyến nghị số 91 ngày 29/06/1951 của Tổ chức lao động quốc tế thì: Thỏa ước tập thể được hiểu là “tất cả các thỏa thuận bằng văn bản có liên quan tới việc làm và điều kiện lao động, được ký kết giữa một bên là người sử dụng lao động, một nhóm người sử dụng lao động hay một hay nhiều nhóm hiệp hội giới chủ, với bên kia là một hay nhiều tổ chức thay mặt của người lao động được bầu ra và trao quyền một cách hợp thức theo quy định của pháp luật quốc gia thì cũng sẽ có quyền năng để thực hiện và ký kết thỏa ước tập thể.”
Trước đây, trong pháp luật lao động Việt Nam gọi thỏa ước lao động tập thể là “hợp đồng tập thể” với nội dung và phạm vi áp dụng chủ yếu trong doanh nghiệp nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 44 Bộ luật lao động thì “Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.”
Xét về thực chất thỏa ước lao động tập thể là những quy định nội bộ của doanh nghiệp, trong đó bao gồm những thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về những vấn đề có liên quan đến quan hệ lao động.
So với hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể có những điểm khác biệt dễ nhận biết là về chủ thể của quan hệ. Xuất phát từ lợi ích của mỗi bên, trong quá trình lao động đòi hỏi các bên phải cộng tác với nhau, nhân nhượng lẫn nhau và vì lợi ích của cả hai bên, đồng thời cũng vì mục đích phát triển doanh nghiệp, làm lợi cho đất nước. Do đó, trong hợp đồng lao động là sự thỏa thuận của là cá nhân người lao động và một bên là người sử dụng lao động; thì trong thỏa ước lao động tập thể, một bên là tập thể những người lao động và bên kia là người sử dụng lao động hay thay mặt của tập thể những người sử dụng lao động (nếu là thỏa ước ngành). Ngoài ra, hình thức thỏa thuận trong hợp đồng lao động có thể là văn bản hay giao kết bằng miệng, còn thỏa ước lao động tập thể nhất thiết phải bằng văn bản.
2. Bản chất của thỏa ước lao động tập thể
Về bản chất pháp lý, thỏa ước lao động tập thể vừa có tính chất là một hợp đồng, vừa có tính chất là một văn bản có tính quy phạm.
Tính chất hợp đồng của thỏa ước lao động tập thể thể hiện rất rõ qua việc xây dựng thỏa ước đó là được giao kết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên người sử dụng lao động và tập thể người lao động dưới hình thức một văn bản viết. Đối với việc xây dựng thỏa ước, một trong các bên đều có quyền đề xuất ký kết với bên còn lại để cùng nhau thương lượng. Trong quá trình thương lượng, mỗi bên đều có quyền đưa ra ý kiến của mình về các vấn đề trong thỏa ước vầ các ý kiến này có giá trị ngang nhau. Yếu tố hợp đồng này còn được thể hiện rất rõ trong việc tạo lập thỏa ước, đó do các bên tự nguyên tham gia thỏa ước, không thể có thỏa ước nếu không có sự tự nguyện tham gia của các bên. Ngoài ra, nội dung mà các bên thỏa thuận trong thỏa ước là những vấn đề về việc làm và bảo đảm việc làm; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương; định mức lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động… mà những vấn đề này mới chỉ được pháp luật quy định ở dạng khung pháp lý hay chưa có quy định, nên có thể nói sự tự thỏa thuận của các bên là điều được pháp luật khuyến khích trong việc xây dựng thỏa ước lao động tập thể.
Tính chất quy phạm của thỏa ước lao động tập thể được thể hiện trong nội dung thỏa ước, trình tự ký kết và hiệu lực của thỏa ước. Trước hết, nội dung của thỏa ước lao động tập thể là sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động cho phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị. Vì vậy, nội dung của thỏa ước thường được xây dựng dưới dạng các quy phạm, theo kết cấu điều khoản thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, thời gian làm việc...
Để có hiệu lực, quá trình ký kết thỏa ước phải tuân theo một trình tự nhất định, đó là BCH công đoàn phải lấy ý kiến của tập thể lao động về nội dung của thỏa ước, và chỉ khi có trên 50% người lao động trong doanh nghiệp đồng ý thì thỏa ước mới được ký kết. Những quy định trong nội bộ đơn vị, những thỏa thuận trong hợp đồng trái với thỏa ước (theo hướng bất lợi cho người lao động) phải được sửa đổi lại cho phù hợp.
Sau khi ký kết thì thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực trong phạm vi toàn đơn vị, nó không chỉ bắt buộc thực hiện đối với các thành viên ký kết, mà còn đối với cả những bên không cùng tham gia ký kết hay thậm chí không thuộc tổ chức của các bên (như công nhân không phải là đoàn viên công đoàn hay công đoàn viên nhưng không tham gia thảo luận ký kết) vẫn phải thực hiện theo quy định của thỏa ước.
Với tính chất nói trên, thỏa ước lao động tập thể được coi là “luật” của các đơn vị sử dụng lao động (chịu sử điều chỉnh của bộ luật lao động).
3. Đặc trưng của thỏa ước lao động tập thể.
a. Tính tập thể của thỏa ước lao động tập thể.
Về chủ thể, một bên của thỏa ước lao động tập thể bao giờ cũng là thay mặt của tập thể lao động. Đại diện tập thể người lao động tham gia thương lượng thỏa ước không phải vì lợi ích cá nhân hay một số người lao động mà vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong đơn vị. Tuy nhiên, tùy theo cơ cấu tổ chức, quy mô của từng đơn vị mà tập thể lao động ở đây có thể được xác định trong phạm vi một doanh nghiệp hay một ngành… hay cũng có thể chỉ trong một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp. Cũng tùy theo quy định hay tập quán của mỗi nước mà thay mặt cho tập thể lao động nói trên là tổ chức công đoàn (nghiệp đoàn) hay các thay mặt do các thành viên bầu ra. Pháp luật nước ta cũng như pháp luật của hầu hết các nước khác đều thừa nhận tổ chức công đoàn là thay mặt chính thức cho tập thể lao động tham gja thương lượng và ký kết thỏa ước với người sử dụng lao động.
Về nội dung, các thỏa thuận trong thỏa ước bao giờ cũng liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của tập thể người lao động trong đơn vị. Nó không chỉ có hiệu lực đối với các bên ký kết, các thành viên hiện tại của đơn vị mà còn có hiệu lực đối với các thành viên tương la...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status