Tiểu luận Giao dịch dân sự và phân loại giao dịch dân sự - pdf 13

Download Tiểu luận Giao dịch dân sự và phân loại giao dịch dân sự miễn phí



Chủ thể tham gia giao dịch dân sự nhằm đạt được những lợi ích vật chất hay tinh thần nhất định, do đó việc lựa chọn một giao dịch dân sự nào đó để tham gia cũng như xác định các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự đó là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân của chủ thể tham gia giao dịch. Xuất phát từ lý do này, Điểm c, khoản 1, Điều 122, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện”.
Ý chí của chủ thể phải là ý chí địch thực, tức là nguyện vọng,mong muốn chủ quan bên trong cảu chủ thể không bị tác động bởi bất kỳ yếu tố khách quan hay chủ quan nào khác dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức hay kiểm soát được ý chí của mình. Giữa ý chí đích thực của chủ thể với sự biểu hiện ý chí phải có sự thống nhất. nếu không có sự thống nhất ý chí thì chủ thể không có sự tự nguyện và vì vậy nên các giao dịch dân sự đó sẽ bị vô hiệu. Những trường hợp chủ thể không có sự tự nguyện khi tham gia giao dịch dân sự có thể là: Giả tạo, nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38821/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ao dịch dân sự mà pháp luật không buộc chủ thể phải tuân theo một hình thức khác. Thông thường, hình thức lời nói của giao dịch dân sự được áp dụng đối với các giao dịch dân sự mà các chủ thể có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau, đối tượng cảu giao dịch có giá trị nhỏ hay với các giao dịch dân sự phát sinh hậu quả pháp lý sau khi thỏa thuận và các bên thực hiện nghĩa vụ ngay sau đó giao dịch dân sự chấm dứt. Trong một số trường hợp hình thức này được pháp luật quy định điều kiện, trình tự và thủ tục thì phải tuân thei quy định đó. Ví dụ: pháp luật quy định điều kiện của việc lập di chúc miệng (tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc bằng văn bản, có ít nhất hai người làm chứng...), thủ tục (trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hay chứng thực) – do đó người lập di chúc miệng phải tuân theo quy định này (Khoản 2, Điều 652, Bộ luật dân sự năm 2005).
* Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản: Hình thức văn bản có thể do pháp luật quy định (hợp đồng thuê nhà phải được lập thành văn bản) hay do các bên thỏa thuận (hợp đồng vay giữa các cá nhân...). Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức văn bản thì các chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải tuân theo hình thức này. Ngoài ra, “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hay chứng thực, phải đăng kí hay xin phép thì phải tuân theo các quy định đó” (Khoản 2, Điều 124, Bộ luật Dân sự năm 2005). Ví dụ: mua bán nhà, đất, chuyển quyền sử dụng đất, tài sản... Bên cạnh đó giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.
* Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể, đây là hình thức cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt khi công nghệ ngày càng phát triển với sự tự động hóa được áp dụng ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố, thị xã như bán hàng qua máy tự động, rút tiền trong thẻ từ các máy do các ngân hàng đặt ở những vị trí khác nhau...
2.5 Giao dịch dân sự có điều kiện
Điều 125, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về giao dịch dân sự có điều kiện
như sau: “ 1.Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hay hủy bỏ.
2.Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hay của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có sự tác động của một bên hay của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.”
* Điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện có thể là:
Điều kiện làm phát sinh. Ví dụ: A thỏa thuận với B rằng A sẽ mua ngôi nhà của B nếu B sửa sang lại phòng bếp và cửa ra vào. hay trong di chúc người để lại di sản đưa ra điều kiện để hưởng di sản của người thừa kế...
Điều kiện làm hủy bỏ giao dịch. Ví dụ: A thỏa thuận với B rằng A sẽ mua lại chiếc xe máy của B với giá thi trường và với điều kiện là B phải giao lại cho A toàn bộ các giấy tờ liên quan đến chiếc xe đó, về quyền sở hữu chiếc xe... nhưng nếu B không giao lại đầy đủ các giấy tờ mà A đã yêu cầu thì hợp đồng bị hủy bỏ.
=> Điều kiện trong giao dịch dân sự phải là những sự khiện có thể xảy ra trog tương lai, có thể thực hiện được và không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
3. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
3.1 Khái niệm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
* Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là những điều kiện do pháp luật quy định mà một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa mãn các điều kiện đó.
* Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được pháp luật quy định tại Điều 122, Bộ luật Dân sự như sau:
“ Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp pháp luật có quy định.”
3.2 Các điều kiện có hiệu lực của giao dich dân sự
3.2.1 Điều kiện về chủ thể tham gia
Theo quy định tại Điều 122, Bộ luật dân sự thì: “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”
Nhà nước cũng là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam là chủ thể đặc biệt, chủ thể của hầu hết các ngành luật nên ta sẽ không đề cập đến ở đây.
* Cá nhân:
Cá nhân được coi là chủ thể thường xuyên, chủ yếu, phổ biến của giao dịch dân sự. Có thể nói cá nhân tham gia tất cả các giao dịch dân sự, kể cả với các giao dịch dân sự trong đó chủ thể tham gia là pháp nhân hay chủ thể khác thì cá nhân vẫn tham gia là người đại diện.
Điều 17, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.
=> Như vậy, năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự được xác định như sau:
- Đối với người có năng lực hành vi đầy đủ: Đó là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hay vì lợi ích của các chủ thể khác.
- Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Trên thực tế, những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có thể tham gia lao động và có thu nhập. Xuất phát từ lý do này, pháp luật dân sự đã chấp nhận một số giao dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp lý nếu giao dịch dân sự đo do người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện. Nhưng nếu pháp luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phải được sự đồng ý của người thay mặt theo pháp luật. Ví dụ: Điều 652, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “...2. Di chúc của người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha mẹ hay người giám hộ đồng ý”. Ngoài ra, nếu pháp luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện) buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì giao dịch dân...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status