Tiểu luận Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự



Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện, quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 :
“1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hay Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
2. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hay người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.”
Theo nội dung của Điều luật trên thì phạm vi chủ thể có quyền thông báo những tình tiết mới phát hiện của vụ án là rất rộng, bao gồm mọi công dân, cơ quan, tổ chức và ngay cả người bị kết án đều có quyền này.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39297/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

0 về tính chất của tái thẩm như sau:
“Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hay quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hay quyết định đó.”
Đây là giai đoạn có nhiều điểm giống với giai đoạn giám đốc thẩm.
Cũng như Giám đốc thẩm, tái thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng hình sự, được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, đây là giai đoạn xét lại bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật rơi vào trường hợp của điều luật 290 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Giai đoạn này nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm trong trường hợp tòa án đã xử vụ án không đúng.
Tuy nhiên trình tự Tái thẩm có điểm khác với trình tự giám đốc thẩm đó là: Trong trình tự giám đốc thẩm thì nội dung là sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng của tòa án trong việc xử lí vụ án đã đánh giá sai tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vi phạm thủ tục tố tụng, áp dụng sai luật. Còn trong trình tự tái thẩm thì nội dung là sửa chữa sai lầm của tòa án trong việc giải quyết vụ án vì mới xác định được tình tiết mới mà Tòa án đã không biết được khi ra bản án hay quyêt định mà những tình tiết này đã làm thay đổi cả nội dung của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Nếu những tình tinh tiết mới này không làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì không thuộc trường hợp phải xét xử theo thủ tục tái thẩm .Cũng như tái thẩm sẽ đặt ra vói trường hợp tòa án cố ý ra bản án hay quyết định trái pháp luật.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng trong thủ tục tái thẩm Tòa án không có nhiệm vụ xét xử lại vụ án mà chỉ tiến hành kiểm tra, xem xét, đối chiếu với những quy định của pháp luật xem bản án hay quyết định bị kháng nghị có căn cứ và hợp pháp không. Khi xem xét, nếu Tòa án thấy bản án , quyết định bị kháng nghị có căn cứ quy định tại Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Tòa án tái thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hay xét xử lại, chứ không có quyền sửa bản án, quyết định đó.
II) KHÁNG NGHỊ TÁI THẨM.
1. Đối tượng và căn cứ để kháng nghị theo thủ tái thẩm.
Theo Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì đối tượng của việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm những bản án hay quyết định đã cá hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm :
“Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:
1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai;
3. Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hay những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hay không đúng sự thật;
4. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.”
Thực chất thì căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hay quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hay quyết định đó.
- Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật :
Sự tham gia của người làm chứng đặt ra trong hầu hết các vụ án, việc có mặt của người làm chứng là người biết được các tình tiết có lien quan đến vu án nên lời khai của người làm chứng có ỹ nghĩa quan trọng cần thiết trong việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định sự thật nhanh chóng, khách quan. Tuy nhiên, không phải mọi lời khai của người làm chứng đều cần xem xét tới mà chỉ những lời khai của người làm chứng có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật dẫn tới việc Tòa án ra bản án hay quyết định không khách quan thì mới là căn cứ để kháng nghị tái thẩm.
Tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những trường hợp cần giám định :
“Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hay khả năng lao động;
b) Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ;
c) Tình trạng tâm thần của người làm chứng hay người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
d) Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hay có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
đ) Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.”
Khi có sự tham gia của người giám định thì người giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luật giám định của mình. Nhưng để trở thành căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì kết luận giám định đó có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật mà dẫn tới việc ra bản án hay quyết định không phù hợp với thực tế khách quan.
Trường hợp vụ án giải quyết cần có người phiên dịch, khi xem xét phát hiện lời phiên dịch có những điểm quan trọng là không đúng sự thật trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thì Viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét xử lại.
- Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai:
Kết luận không đúng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là căn cứ để kháng nghị theo thủ tuc tái thẩm khi những kết luận này là do cố ý , có tính chất phạm tội của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân mà khi ra bản án hay quyết định Tòa án không biết được. Nếu trường hợp những người này có kết luận không đúng nhưng không phải do cố ý mà do những nguyên nhân khác như: năng lực chuyên môn kém, trình độ yếu…dẫn tới việc ra kết luận sai và làm cho bản án hay quyết định của tòa án không khách quan thì đây không được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà nếu bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đây là trường hợp xem là căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hay những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hay không đúng sự thật:
Đây là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm mà có thể do những người tham gia tố tụng và những người khá...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status