Tiểu luận Thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính, cơ sở pháp lý và hướng hoàn thiện - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Thẩm quyền và thủ tục xử lý vi phạm hành chính, cơ sở pháp lý và hướng hoàn thiện



DÀN Ý
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở pháp lý của thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
II. Tính hợp lý của thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
1. Tính hợp lý của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
2. Tính hợp lý của thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
III. Một số kiến nghị về hướng hoàn thiện thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39123/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể đối với mỗi các bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ quan này.
Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 42 của Pháp lệnh được quy định cụ thể tại Điều 15 của Nghị định 128/2008/NĐ-CP.
2. Thủ tục xử lý vi phạm hành chính: Về việc áp dụng thủ tục xử phạt đơn giản theo Điều 54 của Pháp lệnh, Điều 21 của Nghị định 128/2008/NĐ-CP, người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản về VPHC mà ra quyết định xử phạt tại chỗ, trừ trường hợp VPHC được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Có 2 trường hợp được tiến hành xử phạt theo thủ tục đơn giản gồm: Trường hợp hành vi VPHC bị xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng và trường hợp nhiều hành vi VPHC do một người thực hiện mà hình thức xử phạt đối với mỗi hành vi này đều là phạt cảnh cáo hay phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt do Bộ Tài chính phát hành. Trong trường hợp không nộp tiền phạt tại chỗ, cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định.
Trong trường hợp sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (như camera, máy đo tốc độ bằng hình ảnh...) để phát hiện hành vi VPHC trong bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thì biên bản VPHC phải có nội dung về phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng và hình ảnh, bản ghi, dấu vết ghi thu được, các tình tiết và chứng cứ khác (nếu có).
Thời hạn ra quyết định xử phạt là mười ngày kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính, đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. Trong trường hợp xét thấy cần them thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn, việc gia hạn phải bằng văn bản. Thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày kí, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nói chung là một năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện; riêng đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở, đất đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh hay vi phạm hành chính là hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thì thời hiệu là hai năm…Thời hạn và thời hiệu xử phạt vi pham hành chính được quy định tại Điều 10, 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
II. Tính hợp lý của thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Tính hợp lý của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Có thể rằng, hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho thấy các chức danh có thẩm quyền xử phạt đã được quy định tương đối đầy đủ. Ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực quản lí nhà nước đều có các chức danh được trao thẩm quyền tiến hành hoạt động này. Đó là điều kiện quan trọng bảo đảm phát hiện nhanh chóng và kịp thời mọi trường hợp vi phạm, đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc thứ nhất trong xử lí vi phạm hành chính là: “ mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay…”.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thể hiện tập trung và tương đối đầy đủ, rõ ràng trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính là căn cứ quan trọng và điều kiện thuận lợi để quy định cụ thể trong các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước. Các nghị định này về cơ bản đã bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật quy định về thẩm quyền xử phạt.
Việc quy định thêm chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số đạo luật đã phần nào đáp ứng đòi hỏi của quản lí nhà nước kịp thời trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lí chuyên ngành cho các chức danh mà Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính chưa quy định. So với số lượng các chức danh có thẩm quyền xử phạt quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 thì Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định số lượng lớn hơn nhiều và phạm vi thẩm quyền cũng mở rộng hơn nhiều. Ví dụ như, thẩm quyền phạt tiền đều được nâng lên nhiều so với quy định tại Pháp lệnh 1995 để tránh tình trạng vụ việc vượt thẩm quyền xử lý của các cơ quan chuyên ngành cơ sở bị đẩy sang Ủy ban nhân dân cùng cấp quá nhiều, dẫn đến tình trạng tồn đọng, chậm trễ trong việc giải quyết xử phạt vi phạm hành chính.
Bên cạnh đó, có thể thấy rõ sự phân hóa trong thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời, hiệu quả của xử phạt vi phạm hành chính. Người giữ chức vụ cao hơn được trao thẩm quyền rộng hơn; thẩm quyền của chủ tịch ủy ban nhân dân được quy định tương đối toàn diện hơn các chức danh hoạt động trong từng ngành hay lĩnh vực quản lí cùng cấp; mức tiền phạt trong các lĩnh vực quản lí khác nhau cũng được quy định khác nhau cho phù hợp với đặc thù của lĩnh vực. Quy định này dựa trên cơ sở căn cứ vào vị trí của cấp hành chính trong tổ chức bộ máy nhà nước, kết hợp hài hòa với lĩnh vực quản lý nhà nước và phạm vi, chức năng hoạt động của cơ quan có thẩm quyền xử phạt đó trong thực tiễn. Quy định này bảo đảm cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phát huy tối đã vai trò, vị trí, thẩm quyền của mình trong đấu tranh chống vi phạm hành chính đạt hiệu quả cao nhất, tránh tình trạnh lạm quyền hay ngược lại, có thể làm hạn chế hay không xử lý được của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện công vụ.
Nhìn chung, các quy định hiện hành theo hướng trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính với thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (trừ các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ở cấp thấp). Điều đó góp phần quan trọng trong việc giáo dục, răn đe người vi phạm bảo đảm khắc phục hậu quả của vi phạm đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính.
Các quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đã giúp người có thẩm quyền xử phạt đỡ lúng túng trong việc xác định vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không và giúp cấp trên của họ dễ dàng hơn trong đánh giá kết quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung cũng như xác định trách nhiệm của cấp dưới trong những vụ việc cụ thể.
Các quy định về ủy quyền được đặt ra tương đối hợp lí, pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính quy định rõ người có thẩm quyền xử phạt chỉ ủy quyền trong trường hợp vắng mặt; Nghị định...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status