Tiểu luận Đánh giá lĩnh vực luật dân sự trong bộ luật Hammurabi - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Đánh giá lĩnh vực luật dân sự trong bộ luật Hammurabi



MỤC LỤC
I/ Đặt vấn đề:
II/ Giải quyết vấn đề:
1. Chế định hợp đồng:
a) Hợp đồng mua bán:
b) Hợp đồng vay mượn:
c) Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất:
2. Chế định thừa kế:
3. Chế định hôn nhân và gia đình:
III/ Kết thúc vấn đề:
Danh mục tài liệu tham khảo:
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39640/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỤC LỤC
I/ Đặt vấn đề:
II/ Giải quyết vấn đề:
Chế định hợp đồng:
Hợp đồng mua bán:
Hợp đồng vay mượn:
Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất:
Chế định thừa kế:
Chế định hôn nhân và gia đình:
III/ Kết thúc vấn đề:
Danh mục tài liệu tham khảo:
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Nền kinh tế hàng hóa Lưỡng Hà xuất hiện sớm và phát triển vào bậc nhất ở Phương Đông cổ đại, nên luật pháp Lưỡng Hà cũng phát triển nổi trội hơn so với các vùng khác. Ngày nay các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy một số văn bản pháp luật Lưỡng Hà – Đó là những văn bản về mua bán ruộng đất và một vài bộ luật. Trong đó, bộ luật Hammurabi có giá trị lớn nhất. Bộ luật Hammurabi có 282 điều nhưng chỉ đọc được 247 điều. Hình ảnh Hammurabi đứng trước thần mặt trời Samat, được thần Samat (vị thần tượng trưng cho công lý) trao cho bộ luật. Tác giả bộ luật đã ý thức sâu sắc kết hợp thần quyền, vương quyền và pháp quyền, khiến bộ luật trở nên được “thiêng hóa” nhằm đạt được mục đích cai trị dân chúng.
Qua đề tài lần này: “Đánh giá lĩnh vực luật dân sự trong bộ luật Hammurabi”, chúng ta sẽ đi từ không gian nhỏ - trong lĩnh vực luật dân sự, để thấy rõ những mặt tiêu biểu và hạn chế trong bộ luật Hammurabi – Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại.
II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Luật Hammurabi điều chỉnh hầu hết những quan hệ xã hội thời Babilon cổ, tuy bộ luật chưa phân chia thành những ngành luật như hiện nay nhưng tác giả bộ luật đã có ý thức sắp xếp các điều khoản thành từng nhóm riêng theo từng loại quan hệ trong xã hội bấy giờ. Qua các điều khoản, ta có thể qui nội dung của bộ luật thành những chế định sau: Chế định hợp đồng, Chế định về hôn nhân và gia đình, Chế định về thừa kế, Những chế định hình sự, Những chế định tố tụng. Trong đó lĩnh vực luật dân sự đề cập đến những chế định sau:
1. Chế định hợp đồng:
a) Hợp đồng mua bán:
Loại hợp đồng này, bộ luật đề cập khá nhiều và cụ thể. Theo qui định của bộ luật. hợp đồng mua bán phải đầy đủ ba điều kiện thì mới có giá trị:
Tài sản mua bán phải được bảo đúng giá trị sử dụng của nó.
Điều 108 của bộ luật qui định: Nếu mụ bán rượu khước từ không nhận thóc và đòi nhận tiền và có hành vi cân đong gian dối hay hạ giá thóc. Mụ bán rượu sẽ phải chịu hình phạt ném xuống sông.
Người bán phải là người chủ thực sự của tài sản.
Điều 9: Nếu người bán bị người làm chứng tố cáo là bán tài sản của người khác bị coi là trộm cắp và bị xử tội chết. Người đã bán tài sản không chứng minh nguồn gốc của tài sản mà mình đã bán bị coi là trộm cắp, thì sẽ bị tử hình.
Khi tiến hành hợp đồng phải có người thứ ba làm chứng.
Điều 119: Nếu dân tự do đem vàng, bạc hay bất cứ thứ gì nhờ một người dân tự do khác cất giữ thì phải có người làm chứng.
Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên thì hợp đồng mua bán không có giá trị.
Các điều kiện trên chứng tỏ giá trị thực tiễn của bộ luật và thể hiện trình độ làm luật của người Lưỡng Hà cổ đại đã khá cao, đã mang những tư tưởng tiến bộ. Nhưng các chế tài của hợp đồng thường là chế tài hình sự (hình phạt), rất hà khắc và dã man, đây là điểm hạn chế của bộ luật.
b) Hợp đồng vay mượn:
- Bộ luật qui định mức lãi tối đa của hợp đồng vay tiền là 1/5, vay thóc là 1/3. Điều 89: Nếu tam ca cho vay thóc hay bạc lấy lãi thì mỗi guru có thể lấy lại 100 ca thóc, nếu cho vay bạc trắng thì mỗi xikho bạc có thể lấy lại 1/6 và 6 seum.
Như vậy, hợp đồng vay mượn đã qui định mức lãi suất rất cao mà còn hợp pháp. Hợp đồng này đã tạo điều kiện cho những người giàu có về tài sản, sau quá trình cho vay họ đã thu về một lượng tài sản rất lớn mà còn hợp pháp, đẩy nhanh quá trình phân hóa giàu nghèo.
- Ngoài ra, trong hợp đồng còn dùng thân thể con người để làm vật đảm bảo.
Chủ nợ có quyền giữ người nợ và các thành viên trong gia đình người mắc nợ để làm con tin, hay giữ những bất động sản (Điều 115, Điều 119).
Điều kiện này đã vi phạm đến quyền con người, chà đạp lên tình cảm, nhân phẩm và danh dự của con người, họ coi con người như một thứ đồ vật đem ra trao đổi cho những thứ nợ nần của mình. Đây là điểm hết sức hạn chế của bộ luật.
- Bộ luật còn qui định về thời hạn phục dịch ở nhà người bán hay người mua. Đây là điểm tiến bộ của bộ luật vì có những bộ luật khác thì thời hạn này là suốt đời. Nhưng qui định này chỉ áp dụng với những người cùng là dân tự do. Điều 117: Nhưng nếu người bị bán đi là vợ con của dân tự do (có nghĩa họ cùng là dân tự do) thì họ chỉ phải phục dịch ở nhà người mua hay chủ nợ trong 3 năm, đến năm thứ 4 họ được trả tự do.
c) Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất:
Việc lĩnh canh ruộng đất đã trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội Babilon cổ. Bao gồm những đặc điểm sau:
- Luật qui định mức thu tô khác nhau đối với lĩnh canh ruộng và vườn.
Đối với ruộng, người lĩnh canh nhận mỗi mùa từ 1/3 đến 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Điều 46: Nếu người này không thu tiền thuê ruộng, mà sẽ căn cứ theo thu hoạch để thu tô 1/2 hay 1/3 thì thu hoạch của ruộng đất sẽ do nông dân và chủ ruộng căn cứ theo tỉ lệ đã định để chia nhau.
Đối với vườn thì người lĩnh canh được nhận 1/3 số sản phẩm thu hoạch. Điều 64: ...nếu dân tự do đem giao vườn cho người làm vườn trồng cây chà là thì người trồng vườn phải nộp 2/3 số thu hoạch trong vườn mà mình quản lí cho chủ vườn, còn mình thì được 1/3...
Luật còn qui định trách nhiệm của người làm ruộng trong trường hợp không chuyên cần, cẩu thả trong công việc làm cho thu hoạch bị mất mùa (Điều 42,43,44)
Trách nhiệm của người làm ruộng cũng được luật qui định khác nhau tùy vào ý chí của người vi phạm cố ý hay vô ý. Điều 45 qui định: Dân tự do đem ruộng của mình phát canh cho nông dân, và đã thu tiền thuê ruộng mà về sau thần A dát làm ngập ruộng hay lụt phá hủy mất hoa màu, thì người nông dân thuê ruộng phải chịu sự thiệt hại đó.
Từ những đặc điểm trên ta rút ra nguyên tắc: Khi thuê mướn thì chủ ruộng và người lĩnh canh bao giờ cũng thỏa thuận thông qua hợp đồng. Chủ ruộng bao giờ cũng thu được tô, phần rủi ro thì người thuê mướn phải chịu.
Như vậy, những chế định trên nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Những kẻ giàu có cho vay mượn, thuê mướn luôn luôn được pháp luật bảo vệ, còn nhân dân lao động cùng kiệt khổ là đối tượng trừng trị của pháp luật.
2. Chế định thừa kế:
- Trong tư duy pháp lý ở thời điểm đó, nhà làm luật đã có ý thức phân chia rạch ròi hai loại thừa kế: Thừa kế theo pháp luật và Thừa kế theo di chúc.
+)Thừa kế theo pháp luật: Nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì tài sản được chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu, tài sản tập trung ở dòng họ và dần dần được chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình.
+)Thừa kế theo di chúc: Bộ lu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status