Dịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn - pdf 14

Download miễn phí Dịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn



Đến đây, có thể lại nói về việc tôi “dịch cứng nhắc” được rồi. Suy nghĩ lại thì thấy đây là vấn đề cần đặt tiếp theo vấn đề “dịch cứng nhắc”. Văn học vô sản đã xem trọng việc tuyên truyền, tuyên truyền thỉ phải cho đa số có thể hiểu được, thế thì những “thiên thư” về lý luận mà anh “dịch cứng nhắc”, khó hiểu đó, rút cục dịch ra để làm gì? Chẳng phải cũng bằng như không dịch hay sao?
 
Tôi trả lời như sau: Tôi dịch cho tôi, cho mấy người tự xưng là nhà phê bình văn học vô sản, và một số độc giả không tìm cái “thích thú”, không sợ gian khổ, ít nhiều muốn biết những lý luận đó.
 
Từ năm kia lại nay, những lời công kích cá nhân tôi nhiều lắm. Tờ tạp chí nào đại để cũng thấy tên “Lỗ Tấn” mà giọng lưỡi của tác giả, nghe qua, đại để giống như là nhà văn cách mạng. Nhưng tôi xem mấy bài thì lại thấy nói nhảm nhiều quá. Lưỡi dao giải phẫu đưa không trúng vào thớ thịt, chỗ đạn bắn vào cũng không gây thành được vết thương chí mạng. Thí dụ, giai cấp xuất thân của tôi, đến nay vẫn chưa định xong, lúc nói giai cấp tiểu tư sản, lúc nói “buốc gioa”, có khi lại thăng lên là “tàn dư phong kiến” và lại gần giống như vượn đười ươi (xem “Thư Đông Kinh” trên tờ Sáng tạo). Có một hồi, thì chửi đến cả màu sắc bộ răng nữa. Trong xã hội như thế này, rất có thể có tàn dư phong kiến xuất đầu lộ diện, nhưng tàn dư phong kiến là đười ươi thì bất cứ cuốn “duy vật sử quan” nào cũng không nói đến, cũng không tìm ra luận cứ cho rằng màu vàng, tức là có hại cho văn học vô sản. Do đó tôi nghĩ, những bài lý luận có thể tham khảo được như thế này ít quá, nên mọi người mới mơ hồ. Còn như đối với kẻ thù, thì những việc như mổ xẻ, cắn xé, bây giờ không tránh khỏi, có điều có một số cuốn sách giải phẫu học, có một cuốn sách nói về phương pháp nấu nướng, rồi cứ theo phương pháp mà làm, thì có thể tạo ra mùi vị, rút cục là có thể hơi rõ ràng, ngon lành. Người ta thường lấy Prômêtê (Prometheus) [33] trong thần thoại mà ví nhà cách mạng, cho rằng trộm lửa đem về cho loài người, tuy bị Thiên đế hành hạ, vẫn không hối hận, lòng kiên nhẫn to lớn đó cũng tương tự như thế. Nhưng tôi trộm lửa ở nước khác về, bản ý là nấu thịt tôi, cho rằng nếu có thể làm cho mùi vị ngon hơn, thì cơ hồ về phía người cắn xé cũng có lợi phần nào, mà tôi cũng không uổng phí thân tôi: xuất phát điểm hoàn toàn là cá nhân chủ nghĩa, lại còn kèm theo thói xa hoa tiểu thị dân, và cả cái ý muốn “báo thù”, dần dần sờ ra được lưỡi dao mổ xẻ, sẽ quay lại đâm vào tâm tạng người mổ xẻ.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

ìm vị trí mối liên lạc cú pháp”, cái đó làm cho một số người không “thích thú”, nhưng trải qua việc tìm kiếm và thói quen, nay đã đồng hoá, thành cái đã có từ trước rồi! Văn pháp Trung Quốc, so với cổ văn Nhật Bản, còn không hoàn bị bằng, nhưng cũng từng có những cái thay đổi. Thí dụ Sử ký, Hán thư không giống với Kinh Thư; văn bạch thoại ngày nay lại không giống với Sử ký, Hán thư. Có sáng tạo thêm, như đời Đường dịch Kinh Phật, đời Nguyên dịch Thượng dụ [10] , đương thời có rất nhiều “văn pháp, cú pháp, từ pháp” được sáng tạo ra, dùng quen thì không cần đưa ngón tay ra lần mò, cũng có thể hiểu được. Bây giờ lại có “văn ngoại quốc”. Nhiều cách cứng nhắc. Theo kinh nghiệm của tôi, dịch như thế, so với việc chia ra làm nhiều câu, có thể giữ được ngữ khí tinh vi của nguyên văn hơn, nhưng bởi vì phải sáng tạo cái mới cho nên văn Trung Quốc để nguyên như trước có khuyết điểm. Có gì là “lạ”, việc gì mà “ư”? Nhưng phải “đưa ngón tay ra lần mò”, “chịu khó cố gắng”, đối với nhiều người, tất nhiên “không phải là một chuyện thích thú”. Có điều, tui vốn không định tâm làm cho các vị ấy “khoái chí” hay “thích thú”, mà chỉ muốn có một số người đọc có thể thu lượm được ít nhiều. Còn như “bọn” ông Lương Thực Thu, buồn hay vui, hay có được gì hay không, quả “đối với tôi” như đám mây nổi [11] Ông Lương Thực Thu vốn không cần học hỏi lý luận văn học vô sản, nhưng có những chỗ ông ta xem không hiểu được. Thí dụ ông ta nói: “Những cuốn sách ông Lỗ Tấn dịch mấy năm trước như cuốn Tượng trưng của khổ muộn của Trù Xuyên Bạch [12] không phải là người ta đọc không hiểu, nhưng gần đây, sách dịch của ông ta tựa hồ đã đổi phong cách đi rồi!”. Người chỉ cần có một tí thường thức là biết ngay rằng “văn Trung Quốc với văn ngoại quốc khác nhau”, nhưng cùng một thứ văn ngoại quốc, vì mỗi nhà văn có một lối viết riêng, nên “phong cách” và “vị trí, mối liên lạc cú pháp” cũng có thể rất khác nhau. Câu hay đơn giản, hay phức tạp, danh từ hay thông thương, hay chuyên môn, quyết không phải cùng một thứ văn ngoại quốc thì đều dễ hiểu như nhau. Khi tui dịch cuốn Tượng trưng của khổ muộn cũng giống như bây giờ, cứ bằng vào nguyên bản, theo từng câu, thậm chí theo từng chữ mà dịch, thế nhưng ông Lương Thực Thu lại cho rằng xem còn có thể hiểu được, đó là vì nguyên văn vốn dễ hiểu, và cũng vì ông Lương Thực Thu là một nhà phê bình mới của Trung Quốc, và cũng vì trong đó cú pháp mà tui đã sáng tạo cứng nhắc xem quen hơn. nếu là học giả ở trong chốn hang cùng ngõ hẻm, chuyên đọc Cổ văn quan chỉ [13] xem thì dễ thường lại không thấy khó hơn “thiên thư” hay sao? 3. Có nhiều những bản dịch lý luận văn học vô sản “còn khó hơn nhiều thư” lần này lại ảnh hưởng không ít đến ông Lương Thực Thu. Xem không hiểu, cũng có thể có ảnh hưởng, nói thế giống như nói khôi hài, nhưng mà thật. Trong bài “Văn học có tính giai cấp không?”, nhà phê bình ấy nói: “Bây giờ tui phê bình cái gọi là lý luận văn học vô sản, cũng chỉ có thể căn cứ vào một ít tài liệu tui có thể hiểu được mà thôi” Như thế tức là nói: do đó mà kiến thức của ông ta về thứ lý luận đó, hết sức không hoàn toàn. Nhưng lỗi đó thì chúng tui (bao gồm cả dịch giả các cuốn “thiên thư” nữa, cho nên gọi là “chúng tôi”) cũng chỉ có thể chịu trách nhiệm một phần thôi, cònmột phần thì tác giả, vì hồ đồ hay lười biếng, phải chịu lấy “Sách của Bocdanôp” [14] và nửa cuốn Văn học và cách mạng của Tơrôtxky thì quả đã có bản dịch tiếng Anh đấy. Nước Anh không có “ông Lỗ Tấn” bản dịch nhất định dễ hiểu lắm. Đối với sự nảy sinh của văn học vô sản vĩ đại, ông Lương Thực Thu từng tỏ vẻ nhẫn nại và can đảm “chờ, chờ, chờ” nhưng lần này, đối với lý luận, sao ông ta lại không chờ một chút, tìm về xem rồi hẵng nói. Không biết có mà không tìm, gọi là hồ đồ, biết có mà không tìm, gọi là lười, nếu như chỉ ngồi im lặng, như thế có lẽ “thích thú” đấy, nhưng mở miệng nói, thì lại rất dễ hớp phải khí lạnh. Thí dụ, ngay cái bài văn cao siêu “Văn học có tính giai cấp không?” kia, kết luận là không có tính giai cấp. Muốn xoá bỏ tính giai cấp, tui cho dứt khoát nhất là học thuyết “Mã Khắc Tư, Ngưu Khắc Tư gì gì” [15] của Ngô Trĩ Huy và học thuyết “trên thế giới làm gì có cái gọi là giai cấp!” của ông nào đó. Thế là vạn dân vui sướng, thiên hạ thái bình rồi. Nhưng ông Lương Thực Thu lại trúng phải một ít độc “Mã Khắc Tư gì” rồi, nên ông ta thừa nhận trước, hiện nay nhiều nơi là chế độ tư bản, dưới chế độ ấy, có những người vô sản. Có điều “những người vô sản đó vốn không tự giác giai cấp. Chỉ mấy ông lãnh tụ quá giàu lòng thương và có một thái độ quá khích mới đem cái quan niệm giai cấp đó truyền thụ cho họ” [16] , muốn thúc đẩy họ liên hiệp lại, kích thích ý chí đấu tranh của họ. Đúng đấy. Nhưng tui cho rằng người truyền thụ không phải vì lòng thương mà vì sự tưởng cải tạo thế giới. Huống nữa, cái “vốn không có”, thì không làm sao tự giác được, không làm sao kích thích được. Có thể tự giác, có thể kích thích, đủ thấy cái đó vốn có rồi. Cái vốn có thì không che đậy được mãi, thí dụ Galilê [17] nói quả đất xoay chuyển, Đacuyn [18] nói sinh vật tiến hoá, lúc đầu chẳng phải người thì gần như bị các nhà tôn giáo thiêu chết, người thì bị bọn bảo thủ công kích đấy ư? Thế nhưng bây giờ, người ta đối với hai thuyết đó, chẳng ai đánh giá là lạ nữa, chính bởi vì quả đất vốn vẫn xoay chuyển, sinh vật rõ ràng đang tiến hoá. Thừa nhận là có, mà lại muốn che đậy đánh giá là không, nếu không khéo léo tuyệt trần thì không làm được. Nhưng ông Lương Thực thu đã có cách loại trừ đấu tranh. Ông ta cho, như Rutxô nói “tư bản là cơ sở của văn mình”, “cho nên công kích chế độ tư sản tức là phản đối văn minh [19] ”, “một người vô sản, nếu có tiền đồ, thì chỉ cần chịu khổ chịu sở, thành thật làm việc suốt đời, ít hay nhiều, nhất định có thể dành dụm được một ít tư sản tương đối khá. Đó là thủ đoạn đấu tranh sinh sống chính đáng”. tui nghĩ Rutxô sống cách ngày nay tuy đã một trăm năm mươi năm, nhưng không đến nỗi cho rằng cho văn minh quá khứ, vị lai đều lấy tư sản làm cơ sở (Nhưng nếu nói lấy quan hệ kinh tế làm cơ sở thì tất nhiên đúng). Hy Lạp, Ấn độ đều có văn minh, nhưng thời phồn thịnh đều không phải là xã hội tư sản, cái đó có lẽ ông ta cũng biết, nếu không biết, thì ông ta nhầm. Còn như cái cách “chính đáng” người vô sản nêu “chịu cực chịu khổ” mà leo lên giai cấp hữu sản, thì ở Trung Quốc, đó là lời cổ huấn mà các cụ nhiều tiền, lúc cao hứng, thường cũng bày dạy cho những người công nhân cùng kiệt khổ. Trên thực tế, bày dạy cho những người công nhân cùng kiệt khổ. Trên thực tế, hiện nay, những người “vô sản” đang “chịu cực chịu khổ thành thật” muốn leo lên giai cấp trên, cũng còn nhiều. Nhưng đó là lúc chưa có người “đem cái quan...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status