Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam - pdf 14

Download miễn phí Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam



Ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành thu phí trước của khách hàng. Sau đó - bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng bảo hiểm, các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy, người ta còn gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác, cùng với hoạt động kinh doanh các công ty bảo hiểm luôn phải quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định.
Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật cho phép các công ty bảo hiểm được sử dụng nguồn quỹ dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi, cũng đồng thời là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy dễ nổ trên đường thủy nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ, người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng - lắp đặt, người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo và ban hành, nếu có thực hiện sẽ vào nửa cuối năm 2007.
Ðiều đáng lo ngại nhất là, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO.
Ðể nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế.
Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm cùng với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. Ðào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sĩ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá...
Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng, việc mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, bảo đảm quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Ðiều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam.
1.3.2. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế.
Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP.
Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống.
Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hay mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao.
1.3.3. Mục tiêu phấn đấu – con đường còn dài.
Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài, Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”.
Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP.
Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP.
1.4. BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP.
1.4.1. Những bất cập mà doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang gặp.
Ngành bảo hiểm là ngành kinh doanh đặc thù có chu trình tính chi phí ngược, tức thu trước chi phí sau. Bộ Tài chính cũng đã ban hành chế độ hạch toán kế toán riêng cho DN này và đã có nhiều sự thay đổi, nhưng với bối cảnh hội nhập hiện nay thì những thay đổi đó chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt, là những vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nước ngoài như: báo cáo kế toán, thưởng thu phí, thưởng không khiếu nại hay giảm phí cho những đối tượng nhiều năm tham gia bảo hiểm…
Ở nước ngoài khi bảo hiểm vài năm mà không có tổn thất thì người ta thường nghĩ tới thưởng cho những doanh nghiệp này, vì họ tạo ra lợi ích, nên họ được phép thưởng. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 155
Thách thức lớn nhất hiện nay chính là công nghệ thông tin. Bởi để phát triển mạnh lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta cần có một hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình khai thác và quản lý nội địa.
Nếu có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và hoàn chỉnh, nó sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các DN về mặt thời gian, độ chính xác trong việc tra cứu khách hàng, đối tượng bảo hiểm hay công tác hạch toán kế toán, đặc biệt là khâu bồi thường: các DN không phải đối chiếu, tìm giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy thông báo tai nạn, giấy đăng kiểm... gì cả, mà chỉ cần bật máy ra là có hết. Còn nếu làm thủ công thì mất hàng giờ để soi từng chữ, trong khi máy tính chỉ mất 2-3 phút. Do đó, công nghệ thông tin vẫn là thách thức lớn nhất đối với hoạt động dịch vụ bảo hiểm hiện nay.
1.4.2. Môi trường kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam hiện nay.
Có thể nói, môi trường kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn và rất nhiều khoản chưa khai thác được, như: toàn bộ thị trường nông nghiệp, nông thôn, thị trường tư nhân… nhà ở và tài sản cá nhân cũng chưa đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status