Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang - pdf 20

Download miễn phí Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang



MỤC LỤC
 
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NGÀNH THỦY SẢN Ở KIÊN GIANG 4
1.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển thủy sản ở Kiên Giang 4
1.1.1. Ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Kiên Giang 4
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang 7
1.2. Những đặc điểm chủ yếu của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang 17
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NGÀNH THỦY SẢN Ở KIÊN GIANG 21
2.1. Thực trạng của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang 21
2.1.1. Xét về từng loại hình kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang 21
2.1.2. Năng lực của kinh tế tư nhân trên các lĩnh vực của ngành thủy sản ở Kiên Giang 25
2.1.3. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với tỉnh 30
2.1.4. Về cơ chế hoạt động 32
2.1.5. Hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang 33
2.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển lành mạnh kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang 36
2.2.1. Việc quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo 36
2.2.2. Quyền lợi của người lao động trong kinh tế tư nhân ở lĩnh vực thủy sản chưa được đảm bảo 39
2.2.3. Công tác quản lý vệ sinh môi trường chưa đạt yêu cầu đặt ra 40
2.2.4. Việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chưa đầy đủ và đều đặn 40
2.2.5. Vấn đề đào tạo, nâng cao kiến thức cho người lao động trong ngành thủy sản Kiên Giang còn nhiều hạn chế 41
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY NĂNG LỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NGÀNG THỦY SẢN Ở KIÊN GIANG 44
3.1. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang 45
3.2. Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá 50
3.3. Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân 51
3.4. Tổ chức lại sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang 53
3.5. Cần có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ để chấm dứt tệ dùng chất nổ, xung điện, chất độc để đánh bắt thủy sản 59
3.6. Khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân hợp tác và liên kết với nhau theo những hình thức thích họp như góp vốn, cung cấp dịch vụ, liên kết đào tạo 60
Kết luận 62
Danh mục tài liệu tham khảo 64
 
 
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

trên một ha là 1.515 hộ (chiếm 28,86%) và nhỏ hơn 1 ha là 3.716 hộ, chiếm 70,87%.
Số hộ nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng đều qua các năm, diện tích nuôi trồng không ngừng được mở rộng, năm 1992 với diện tích là 15.883 ha, năm 1995 là 21.189 ha, năm 1998 là 27.663 ha và năm 1999 là 29.319 ha.
ở nuôi trồng thủy sản cũng gặp tình cảnh số lượng hộ tăng nhưng sản lượng thu hoạch thì có xu hướng giảm rõ rệt, từ 0,53 tấn/ha năm 1994 đến năm 1996 còn 0,39 tấn/ha, năm 1998 chỉ đạt 0,32 tấn/ha và năm 1999 chỉ còn 0,21 tấn/ha. Nguyên nhân của việc giảm mạnh do diện tích nuôi sò giảm vì nước ngọt từ các kênh xả lũ biển gây ảnh hưởng đến môi trường sinh sản của sò giống.
Vừa qua chỉ mới tập trung chủ yếu vào nuôi tôm nước lợ, nuôi sò huyết, cá ao, mương vườn, nuôi cá ruộng lúa... nên quy mô nuôi còn nhỏ, chưa tập trung.
Chủ lực trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là hộ gia đình, hiệu quả kinh tế quá thấp, thậm chí bị mất mùa nên việc tích tụ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất không lớn, mức đầu tư năm 1995 là 12,5 tỷ trên tổng diện tích là 21.189 ha, bình quân mức đầu tư là 3.041.362 đồng trên một ha. Đến năm 1998 tổng mức đầu tư là 14 tỷ đồng trên tổng diện tích 27.662 ha, bình quân mức đầu tư là 506.091 đồng trên 1 ha và bình quân một hộ đầu tư là 2.666.000 đồng.
Như vậy tính từ 1995-1998, mức đầu tư bình quân theo hộ thì tăng nhưng theo diện tích thì giảm.
Lĩnh vực chế biến thủy sản:
Kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu là chế biến nước mắm, mực khô, sơ chế mực, cá khô, tôm khô, ngân chỉ... đặc biệt có nước mắm chiếm 67%. Với phương pháp chế biến thủ công và dựa vào kinh nghiệm gia truyền là chính.
Qua các năm công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển chậm, thậm chí có xu hướng giảm, còn doanh nghiệp tư nhân cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT thì phát triển đều đặn, mức đầu tư phát triển vừa, ổn định, năm 1995 mức đầu tư đạt 12,5 tỷ đồng đến năm 1997 mức đầu tư tăng thêm 7,1 tỷ đồng. Trong đó có một doanh nghiệp tư nhân đầu tư 6,3 tỷ đổi mới dây chuyền chế biến cá bột, và năm 1999 có 2 doanh nghiệp tư nhân ở Phú Quốc đã xuất khẩu sang Pháp 260.000 lít nước mắm đạt 650.000 USD
Trong lĩnh vực này, kinh tế tư nhân đã thu hút hàng ngàn lao động.
Dịch vụ hậu cần:
Kinh tế tư nhân phát triển chủ yếu trong dịch vụ đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền, cung cấp nước đá cho lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản. Xu hướng này ngày càng phát triển do nhu cầu đánh bắt xa bờ.
- Mức đầu tư của kinh tế tư nhân trong khu vực cơ khí và sửa chữa tàu thuyền đạt qua các năm như sau: Năm 1995 là 12 tỷ đồng, năm 1997 là 14,4 tỷ đồng tăng gấp 1,2 lần so với năm 1995, đến năm 1998 là 34 tỷ đồng.
- Còn trong chế biến nước đá với 67 nhà máy sản lượng sản xuất 17.448.000 cây, mức đầu tư 1998 là 54,205 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần, so với kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước đầu tư rất mạnh, nhất là vào xây dựng cảng cá.
Có hơn 68 cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu phục vụ cho khai thác thủy sản, trong đó có một cơ sở của công ty quốc doanh đánh cá Kiên Giang, còn lại kinh tế tư nhân có khả năng đóng mới 200-300 tàu/năm và phục vụ sửa chữa hàng ngàn tàu thuyền các loại, đủ sức đóng và sửa chữa tàu thuyền có công suất từ 600 CV trở xuống. Vận chuyển hàng thủy sản trên bộ ưu thế thuộc về kinh tế tư nhân, đáp ứng được yêu cần vận chuyển hàng hải sản ngày càng cao. Kinh tế tư nhân cũng nắm phần lớn cơ khí sản xuất, vật tư trang thiết bị cho nghề cá.
Thương mại thủy sản:
Trong lĩnh vực này kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, từ năm 1990 - 1999 hầu như chiếm lĩnh thị trường nội địa, tiêu thụ khối lượng lớn hải sản khai thác được. Điều này được chứng minh qua bản thống kê sau.
Biểu số 8: Tình hình thu mua tiêu thụ hải sản qua các năm 1990 - 1999
Năm
Tổng Sản lượng khai thác (tấn)
Kinh tế Nhà nước thu mua chế biến XK
Kinh tế tư nhân thu mua đưa vào lưu thông
Tỷ lệ % sản lượng thu mua
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư nhân
1990
93000
24000
69000
25,80
74,20
1991
102500
40000
62500
39,02
60,98
1992
112000
47196
64804
42,14
57,86
1993
140000
50500
89500
36,07
63,93
1994
155000
48600
106400
31,35
68,65
1995
170200
80050
90150
47,03
52,97
1996
190756
121000
69765
63,42
36,58
1997
196535
117923
78612
60,00
40,00
1998
210100
104577
105523
49,77
50,23
1999
218500
103650
114850
47,40
52,60
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Những năm đầu của thập kỷ 90 kinh tế tư nhân chiếm ưu thế trong lĩnh vực thu mua nguồn hàng, từ những năm 1995 trở về sau tỷ trọng của kinh tế Nhà nước không ngừng gia tăng, từ 47,03% năm 1995 lên 63,42% của năm 1996, sau đó thì có dấu hiệu giảm xuống, năm 1997 còn 60%, năm 1998 còn 49,77% và 1999 là 47,4%.
Tỷ lệ thu mua và tiêu thụ như vậy, nhưng thực tế kinh tế Nhà nước chỉ cung cấp tôm đông, cá đông, mực đông, hải sản khác có giá trị kinh tế để xuất khẩu và phần lớn là sản lượng cá xô để đưa vào chế biến bột cá làm thức ăn gia súc, còn lượng thủy sản dùng làm thực phẩm tươi, khô vẫn do tư nhân nắm phần chủ động điều phối thị trường trong tỉnh.
2.1.3. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với tỉnh
Số liệu thực hiện những chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế tư nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trong ngành thủy sản cho thấy:
Về sản lượng: năm 1998 kinh tế tư nhân khai thác được 169.004 tấn chiếm 79,30% tổng sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh và năm 1999 đạt 181.300 tấn chiếm 82,97%, đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Vị chế biến: Trong tổng sản lượng chế biến của toàn ngành thủy sản năm 1998 là 38.514 tấn, bao gồm các mặt hàng: cá đông, tôm đông, mực đông, cá fillet, ghẹ đông, bột cá, cá hộp, hải sản đông lạnh khác và cá khô, tôm khô các loại, nước mắm, trong đó kinh tế tư nhân đạt 18.232 tấn, chiếm 47,35% và năm 1999 chiếm 52,6%. Tuy tỷ lệ chế biến của kinh tế tư nhân cao hơn kinh tế Nhà nước, nhưng xét giá trị sản lượng chế biến, kinh tế Nhà nước đạt cao hơn nhiều vì chủ yếu doanh nghiệp Nhà nước chế biến các mặt hàng dùng cho xuất khẩu như tôm đông, cá đông, mực đông, ghẹ đông, cá fillet, cá hộp,... còn kinh tế tư nhân chủ yếu là sản phẩm chế biến cho tiêu thụ nội địa như cá, mực, tôm dạng khô và nước mắm, một số ít sản lượng nước mắm xuất khẩu.
Về nuôi trồng: năm 1998 tổng sản lượng là 8.947 tấn, và năm 1999 là 6387 tấn, trong đó kinh tế tư nhân mà chủ yếu là kinh tế hộ gia đình chiếm ưu thế gần như tuyệt đối.
Về doanh thu: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đạt 1.540,167 tỷ đồng trong đó kinh tế tư nhân thực hiện 1.132,00 tỷ đồng chiếm 73,50%.
Về vốn: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đầu tư 2.280,145tỷ đồng: Trong đó kinh tế tư nhân đầu tư 2.191,520 tỷ đồng, chiếm 96,115%, chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực khai thác; năm 1999 chỉ trong lĩnh vực khai thác tư nhân đã đầu tư là 31.909,635 tỷ đồng. Chứng tỏ sức huy động vốn của dân vào lĩnh vực kinh tế thủy sản rất cao.
Về lao động: số lượng lao động bình quân trong ngành thủy sản Kiên Giang năm 1998 là 48.076 n...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status