Phân tích một trong những lý thuyết đầu tư mà anh chị biết, đánh giá khả năng áp dụng vào Việt Nam - pdf 21

Download miễn phí Tiểu luận Phân tích một trong những lý thuyết đầu tư mà anh chị biết, đánh giá khả năng áp dụng vào Việt Nam



Để duy trì sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, bảo đảm việc làm, ngày 15/1/2008 Chính phủ đã có quyết định dùng một phần lớn số tiền 17.000 tỷ đồng trích từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ 4% lãi suất cho một số đối tượng doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng thương mại. Theo quyết định nêu trên, đối với những đối tượng doanh nghiệp được "trợ cấp", Nhà nước sẽ chi trả 4% lãi cho ngân hàng.
quyết định tập trung một phần lớn gói kích cầu vào nội dung hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Phân tích một trong những lý thuyết đầu tư mà anh chị biết. Đánh giá khả năng áp dụng vào Việt Nam
1. Lý thuyết gia tốc đầu tư:
• Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề này được đề cập trong "lý thuyết gia tốc vốn đầu tư". Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công thức: x = K/Y (*) Trong đó: K - Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu Y - Sản lượng tại thời kì nghiên cứu x - Hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức trên ta suy ra: K = x * Y Như vậy nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hay không đổi so với thời kì trước. • Đặc điểm của lý thuyết gia tốc đầu tư: - Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác. - Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm và đầu tư tăng nhiều. • Tuy nhiên lý thuyết này còn một số hạn chế: Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế, đại lượng x luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác. Thứ hai, thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật vậy, từ công thức (*) ở trên có thể viết: Tại thời điểm t: K¬t = x * Yt (1)
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư. Nhưng làm thế nào để các tổ chức hay cá nhân đang nắm giữ những nguồn vốn nhàn rỗi và các doanh nghiệp đang có ý tưởng kinh doanh khả thi có thể gặp và hợp tác với nhau, cùng tìm cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Các định chế tài chính trung gian ra đời chính là đáp ứng nhu cầu cần những chiếc “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn.
2. Đánh giá khả năng áp dụng vào Việt Nam
Lý thuyết này nói rằng cần có một lượng vốn nhất định để sản xuất ra một lượng sản phẩm cho trước, nếu như sản lượng tăng thì cũng cần có lượng vốn tăng. Tại Việt Nam, sản lượng tính theo GDP như sau: GDP tăng liên tục và rất nhanh qua các năm: Những năm 90 Việt Nam mới chỉ dừng lại ở con số 42 nghìn tỷ đồng (Tương đương ….), đến năm 1992 con số này vượt ngưỡng 100 nghìn tỷ đồng, năm 2000 GDP Việt Nam đạt 442 nghìn tỷ đồng, năm 2005 tăng gấp đôi 840 nghìn tỷ đồng, đến năm 2009…. Năm 2005, GDP Việt Nam đạt tốc độ tăng 8,4%, cao nhất trong vòng chín năm gần đây,nhưng vẫn chưa bằng tốc độ tăng của năm 1996 (9,34%). Tốc độ tăng trưởng bình quân trong năm năm từ 2001 đến 2005 là 7,5%. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 8,5%, cao hơn hẳn hai năm trước. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, đạt 38,5% GDP. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển cấp nhà nước (ODA) với mức cam kết lên đến 3,75 tỷ USD, trong đó đã giải ngân khoảng 1,7 tỷ USD. Lượng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) khoảng 6 tỷ USD.
Có được những kết quả trên nhờ áp dụng hàng loạt các biện pháp kích cầu như:
a. Nhóm chính sách tiền tệ i. Hạ lãi suất giả sử nền kinh tế chỉ gồm một loại thị trường tài chính là thị trường vốn vay, để đơn giản hóa việc xem xét quan hệ giữa lãi suất và cầu đầu tư. Biến lãi suất tiết kiệm lẫn tiền vay r là biến nội sinh ảnh hưởng trực tiếp lên cầu đầu tư I, và quan hệ giữa hai biến này là nghịch chiều. Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản trên thị trường là một trong những công cụ quan trọng của chính phủ để điều tiết nền kinh tế. Khi lạm phát ở mức cao, chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng - lãi suất tăng làm giảm lượng đầu tư tư nhân, từ đó giảm cung tiền tệ (Việt Nam năm 2008). Nhưng khi lạm phát có dấu hiệu chững, kinh tế bắt đầu suy thoái, chính sách tiền tệ đã được điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh hiện thời, từ chính sách thắt chặt tiền tệ sang nới lỏng có kiểm soát - lãi suất điều chỉnh giảm, tăng vốn đầu tư và tăng cung tiền ra thị trường. Ngân hàng trung ương cũng có thể giảm lãi suất liên ngân hàng, giá của các khoản vay rẻ hơn tạo động cơ khuyến khích các ngân hàng thương mại đi vay, tăng khả năng thanh khoản làm khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên, từ đó kích thích đầu tư trở lại. Hạ lãi suất là một trong hai chính sách chiết khấu quan trọng của Ngân hàng trung ương có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, không chỉ tác động đến lượng tiền cung ứng mà còn tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế . ii. Tăng trưởng tín dụng Tăng trưởng tín dụng là mục tiêu của tất cả các biện pháp hỗ trợ cho vay, trong đó có cả việc giảm lãi suất tiền vay. Ngân hàng trung ương hank chế mức tăng trưởng tín dụng để hạn chế việc tạo tiền quá mức, kiềm chế lạm phát và quy định hạn mức tối đa cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại được cấp hạn mức tín dụng cho nền kinh tế tối đa băng hạn mức được quy định. Tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của các ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng dẫn tới dòng vốn được đổ vào sản xuất tăng lên tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Tuy vậy, nếu tăng trưởng quá nóng, lãi suất bị đẩy lên cao, các nhà đầu tư sẽ lại giảm lượng vay, đồng nghĩa việc giảm đầu tư. b. Nhóm chính sách tài khóa i. Tăng chi tiêu chính phủ Các chương trình chi tiêu của chính phủ nên hướng vào hoàn thiện hệ thống đường sá, cầu cống, điện nước, trường trạm... tạo cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn để kích thích gia tăng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân. Đầu tư nhà nước theo hướng phát triển đồng đều các vùng miền, nhưng vẫn nên tập trung vào những khu vực trọng điểm có cơ hội thu hút đầu tư lớn theo quy hoạch kinh tế quốc gia. Ngoài ra, những khu vực có điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội còn khó khăn, khu vực tư nhân không sẵn sàng đầu tư thì cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư và nhà nước nên dành thêm nguồn vốn hỗ trợ phát triển vào các địa phương đó. Ngoài ra, các gói kích thích của Nhà nước cũng nên được bơm cho khu vực tư nhân ii. Cắt giảm thuế Thuế là một nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng. Như đã trình bày ở phần I, tăng thuế làm tăng chi phí từ đó giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, một công cụ kích cầu hữu hiệu khác chính là giảm thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản thu từ khu vực sản xuất. Công cụ này không chỉ có tác dụng tích cực trong kích thích khu vực sản xuất thực, mà đồng thời còn giúp giảm giá thành sản phẩm, và do đó kích thích người dân tiêu dùng Việc giảm thuế và các khoản thu t
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status