Bản chất,nguồn gốc của lợi nhuận và mâu thuẫn của nó trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa - pdf 24

Download miễn phí Đề tài Bản chất,nguồn gốc của lợi nhuận và mâu thuẫn của nó trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa



MỤC LỤC
Phần mở đầu 2
Nội dung 5
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 5
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận. 5
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận. 6
3. Quan điểm của trường phái Samuellson về lợi nhuận. 8
4. Học thuyết của Mác-Lênin. 9
II. Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời nó lại làm tăng mâu thuẫn ở trong chủ nghĩa tư bản. 21
1. Sự hình thành giá trị thị trường. 22
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế. 23
Kết luận 31
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng có nhiều loại. Tất cả các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn là một điều kiện không thể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt của người. Những bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải quý các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hoá “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự phát triển vược bậc so với các học thuyết kinh tế cổ điển.
Mác và Ăngghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lứon nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày càng giầu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng cùng kiệt khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông phát hiện ra rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T đưa vào qua trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra ta gọi là T’ (T’>T) hay T’ = T + DT.
C.Mác gọi DT là giá trị thặng dư ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Công thức này Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá sức lao động. quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng hoá, với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá ”.
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra làm hai bộ phận. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và được ký hiệu là C.
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và được ký hiệu là: V.
Nhưng, trong đời sống hiện thực, người ta thấy Xí nghiệp nào sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại thì ănng suất lao động cao hơn và nhờ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Khi máy móc chưa được áp dụng phổ biến, nhà tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch, mặt khác, số lượng sản phẩm sản xuất ra sẽ nhiều hơn, do đó tổng khối lượng lợi nhuận mà nhà tư bản thu được cũng sẽ lớn hơn trước.
Như vậy ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến được ứng với tỷ lệ tương đương và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận “Giá trị của hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng”, cộng với giá trị của tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu hiện bằng công thức:
Giá trị = c + v + m
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch ra thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản, (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn qua quá trình.
Giá trị = c + v + m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân mà nhà tư bản trả cho người công nhân): V
M = m’.V =
m.V
v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v + m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v, nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c + v + m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.
ở trên chúng ta nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu về nó ta nghiên cứu sự bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt chất của sự bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu của tỷ suất giá trị thặng dư là m’ ta có:
m’ =
m.100%
v
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thực chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến (v). Gọi M là giá trị thặng dư thừa (Tư bản khả biến là một đơn vị tư bản biểu hiện ra bên ngoài như tiền lương của một công nhân).
Nó nói lên quy mô của tư bản
Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó C.Mác chỉ ra ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status