Hai mô hình cải cách hệ thống ngân hàng thương mại ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập và gợi ý chính sách cho việt nam - Pdf 10

Hai mô hình cải cách hệ thống ngân hàng thương
mại ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập
và gợi ý chính sách cho Việt Nam
Two models in renovating the commercial banking system in emerging
economies that are reforming and integrating and policy proposals for Vietnam
NXB H. : ĐHKT, 2012 Số trang 103 tr. + Ngô Thị Ngọc Mai

Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Tài chính ngân hàng; Mã số: 60.34.20
Cán bộ hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Trình bày cơ sở lý luận về cải cách hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ở
các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập. Nghiên cứu hai mô hình cải cách hệ thống
NHTM phổ biến ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập: mô hình “phục hồi” trường
hợp nghiên cứu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc; Mô hình “cấp mới” trường hợp nghiên
cứu của hệ thống ngân hàng Nga; so sánh mô hình “phục hồi” và “cấp mới” và những thuận
lợi khóa khăn nếu áp dụng vào Việt Nam. Nêu một số hàm ý chính sách cho việc cải cách hệ
thống NHTM của Việt Nam.

Keywords: Tài chính ngân hàng; Ngân hàng thương mại; Việt Nam

Content.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong 25 năm đổi mới, cùng với nền kinh tế của đất nước, ngành ngân hàng Việt Nam đã có
những chuyển đổi quan trọng, từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân
hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng (TCTD) trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và

Nhìn chung, các quốc gia thường cải cách hệ thống ngân hàng khi xảy ra khủng hoảng tài
chính, kinh tế hoặc sau khủng hoảng và đang thực hiện các chính sách hỗ trợ phục hồi. Thực tiễn này
đã được chứng minh trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 (Hawkins và Turner,
1999; Hawkins, 1999; Dookyung Kim, 1999). Trong cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ bắt
đầu từ năm 2007, Mỹ cũng thực hiện một biện pháp cải cách mạnh mẽ là tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng trong quá trình xảy ra khủng hoảng và sau khi thực hiện các chính sách kích thích kinh tế. Nae-
Youn Lee (2000) và Dominique Strauss-Kahn (2009) cho rằng, khi các quốc gia đối mặt với những
cuộc khủng hoảng kinh tế và đang theo đuổi các chính sách khôi phục nền kinh tế, cải cách hệ thống
ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng yếu kém được coi là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng
đầu. Sự ổn định của hệ thống tài chính được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất về mặt
thể chế cho sự hoạt động hiệu quả của nền kinh tế thị trường và cho quá trình phục hồi nền kinh tế.
Theo Hawkins and Turner (1999), Goldstein and Turner (1996), Klingebiel và Caprio (1996),
có thể chia thành các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và cải cách thành 3 nhóm sau: * Yếu tố vi mô, gồm:
- Các quy định và thực tiễn hoạt động ngân hàng kém: đặc biệt lưu ý là tình trạng không đủ
vốn, vi phạm chính sách cho vay.
- Các vấn đề liên quan tới mẫu thuẫn giữa chủ sở hữu và người điều hành cũng đóng vai trò
quan trọng đặc biệt là các chính sách thưởng để khuyến khích nhân viên cho vay dựa trên số lượng
các khoản vay mà không chú ý tới rủi ro ngân hàng có thể gặp phải.
- Giới hạn về trình độ của nhân viên có thể cản trở việc áp dụng công nghệ mới.
* Yếu tố vĩ mô: sự biến động mạnh về giá cả hoặc các yếu tố kinh tế vĩ mô như nền kinh tế
tăng trưởng nóng. Ví dụ cú sốc về dầu trong những năm 1970 ở châu Mỹ Latinh đã dẫn đến khủng
hoảng nợ đầu những năm 1980.
* Yếu tố có tính hệ thống: môi trường không tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hiệu quả
phát triển như:
- Số lượng ngân hàng quốc doanh lớn có thể bóp méo cả xu hướng cho vay, thu hút tiền gửi và tính
cạnh tranh trong ngành ngân hàng, cũng như khả năng đa dạng hóa hoạt động của các ngân hàng.
- Sự định hướng của chính phủ về tín dụng có thể hạn chế các ngân hàng phát triển kỹ năng

Theo Joseph Stiglitz (2002), cải cách hệ thống ngân hàng sẽ khó hơn rất nhiều tại các nước
đang phát triển bởi một số lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, tại các nước này thường thiếu cơ sở luật pháp, khoa học và năng lực thể chế cho việc
tái cấu trúc hệ thống (ví dụ như cơ chế xử lý tài sản).
Thứ hai, tại các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ các ngân hàng ở trong tình trạng thiếu thanh
khoản và có tài sản xấu chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống ngân hàng, số lượng ngân hàng hoạt động
hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các ngân hàng yếu kém.
Thứ ba, hệ thống ngân hàng có thể phức tạp hơn, bao gồm cả các ngân hàng nhà nước và ngân
hàng tư nhân. Những ngân hàng nhà nước có thể hoạt động với một cơ chế bảo lãnh ngầm đối với
người gửi tiền. Những tuyên bố của chính phủ về việc không bảo đảm cho các ngân hàng tư nhân có
thể tạo ra việc rút tiền khỏi những ngân hàng này, đặc biệt nếu chính phủ đóng cửa một số ngân hàng
và gây ra sự nghi ngờ về sự lành mạnh của những ngân hàng khác trong hệ thống.”
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhìn chung, cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu trong nước tập trung vào vấn đề tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách chuyên sâu, mà hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc phân tích sơ
lược vấn đề cải cách hệ thống ngân hàng, những vấn đề liên quan đến cơ cấu lại từng ngân hàng, hay
đánh giá hiệu quả hoạt động của từng ngân hàng độc lập.
Xuất phát điểm của các nghiên cứu trong nước là các đánh giá thực trạng về hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng. Điểm mạnh của các nghiên cứu này là đang ngày càng áp dụng các
công cụ và mô hình phân tích theo các chuẩn mực nghiên cứu trên thế giới.
Trong những năm gần đây, trước sự yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam
và yêu cầu cần phải cải cách, một loạt công trình nghiên cứu khoa học công phu được tiến hành
nhằm phân tích, đánh giá thực trạng của hệ thống này, tìm hiểu các kinh nghiệm quốc tế và đưa ra
các kiến nghị chính sách. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:
Đề tài cấp nhà nước của Viện Nghiên cứu về Quản lý Kinh tế Trung ương “Phát triển thị
trường tài chính Việt Nam đến năm 2020” được xem là một nghiên cứu tổng thể, toàn diện và cập
nhật các vấn đề phát triển của thị trường tài chính.
Đề tài “Lý luận và thực tiễn về tự do hóa các giao dịch vốn và sự ổn định khu vực tài chính
Việt Nam: Khuôn khổ chính sách đến năm 2020” đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về tự
do hóa giao dịch vốn trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 như Thái Lan, Indonesia

đổi và Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không đi sâu vào mô tả thực trạng quá trình cải cách hệ thống
NHTM mà tập trung nghiên cứu, đánh giá mô hình và cách thức cải cách hệ thống NHTM ở các nền
kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập¸từ đó rút ra hàm ý chính sách đối với mô hình và cách thức cải
cách hệ thống NHTM của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phân tích mô hình lý thuyết, nghiên cứu
trường hợp và so sánh
Hai trường hợp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được lựa chọn là:
+ Nga: theo mô hình cấp mới
+ Trung Quốc: theo mô hình phục hồi
Luận văn sẽ sử dụng khung dưới đây để tổng hợp và so sánh các trường hợp nghiên cứu của các
nước. Khung này cho phép hình dung rõ nét và tìm ra mối liên hệ giữa những điểm khác biệt giữa hai
trường hợp nghiên cứu và những điểm khác biệt trong mo hình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm có 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và
hội nhập.
Chương 2: Hai mô hình cải cách hệ thống NHTM phổ biến ở các nền kinh tế đang chuyển đổi
và hội nhập.
Chương 3: Một số hàm ý chính sách cho việc cải cách hệ thống NHTM của Việt Nam.

Chương 1
Cơ sở lý luận về cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập
1.1. Hệ thống NHTM ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM đã tăng rất nhanh, đã và đang
từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát
triển. Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, mức
độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp vào GDP hàng năm. Các NHTM Nhà nước vẫn
đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn, đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế

ngân hàng cũ (Dornbusch and Giavazzi, 1999; Lau, 1999), có thể được hiểu là tái cấu trúc theo
đường lối “phục hồi”, vì cho rằng cải cách nhanh sẽ dẫn đến các cuộc khủng hoảng hoặc biến động
bất thường trên thị trường tài chính. Đường lối này tiến hành tái cấp vốn và cơ cấu lại thể chế của các
ngân hàng quốc doanh hiện có để phục hồi các ngân hàng này, cho phép ở mức giới hạn chia tách các
ngân hàng, hạn chế tư nhân hoá và cấp phép mới. Đây là xu hướng phổ biến ở các nền kinh tế Trung
và Đông Âu như Hunggari và Ba Lan.
Việc lựa chọn đường lối cải cách “cấp mới” hay “phục hồi” phụ thuộc vào điều kiện ban đầu
của quá trình chuyển đổi, đặc biệt là điều kiện thể chế, môi trường phát triển kinh tế vĩ mô và cải
cách ở các lĩnh vực khác như môi trường pháp lý và doanh nghiệp. Phương pháp “phục hồi” được sử
dụng ở các nền kinh tế có độ sâu tài chính khi có một vài ngân hàng lớn đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế và thống trị thị trường tín dụng. Ngược lại, phương pháp “cấp mới” được sử dụng ở
các nền kinh tế ít có độ sâu tài chính khi các ngân hàng cũ có vai trò ít cả về kinh tế lẫn chính trị
khiến cho chính phủ không chú trọng nhiều vào hỗ trợ hệ thống ngân hàng.
Chương 2
Mô hình cải cách hệ thống NHTM của Nga và Trung Quốc
2.1. Mô hình “phục hồi”- trường hợp nghiên cứu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc
2.1.1. Thực trạng hệ thống ngân hàng Trung Quốc trước cải cách (trước 1997)
Trước khi tái cấu trúc, hệ thống ngân hàng Trung Quốc rất tập trung và phân khúc rất rõ
ràng giữa các nhóm ngân hàng có chế độ sở hữu khác nhau: 4 ngân hàng thương mại nhà nước và 3
ngân hàng chính sách đóng vai trò chủ đạo. Năm 1997, bảy ngân hàng này chiếm 2/3 tổng tiền gửi và
3/4 tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng. Mặc dù có ngân hàng chính sách để quản lý và thực hiện các
khoản vay theo chính sách, một phần đáng kể khoản vay chính sách (cho các doanh nghiệp nhà nước
vay) vẫn là từ ngân hàng thương mại nhà nước. Các tổ chức tài chính khác kể cả Hợp tác xã tín dụng
nông thôn chiếm 13% tổng số tiền gửi và 10% tổng dư nợ, ngân hàng thương mại quốc gia và khu
vực chiếm 10% tổng số tiền gửi và 5% tổng dư nợ .
Chất lượng tín dụng rất thấp, nợ xấu cao và số liệu công bố được đánh giá là thấp hơn nhiều so
với thực tế. Ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc.
Chức năng sở hữu và điều hành không được tách biệt. Các ngân hàng thương mại nhà nước Trung Quốc
không có cơ chế quản lý rủi ro và cũng không có động lực tạo ra lợi nhuận. Đây được đánh giá là nguyên
nhân chính hay “lỗi” mang tính cấu trúc trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc dẫn đến tình trạng nợ xấu

- Sử dụng thành viên độc lập trong hội đồng quản trị.
(*) Hiệu quả cải cách về quản trị
- Hiệu quả:
+ Tình trạng nợ xấu và chấm dứt thua lỗ kinh doanh ở ngân hàng được cải thiện đáng kể.
+ Ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội.
+ Chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế kinh doanh của các ngân hàng, các ngân hàng đã có được
quyền tự chủ nhiều hơn trong sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
+ Thông qua cải cách chế độ sở hữu, nhiều ngân hàng đã ra đời và có sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế.
2.1.3. Bài học kinh nghiệm
- Tái cấu trúc ngân hàng nên đi đôi với việc tái cấu trúc doanh nghiệp. Tuy nhiên tái cấu trúc
doanh nghiệp gặp nhiều có khăn, tốn thời gian để xử lý hơn tái cấu trúc ngân hàng.
- Chế độ xã hội và đặc điểm của các tổ chức kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia có ảnh hưởng
tới cách tiếp cận trong cải cách và tái cấu trúc, qua đó ảnh hưởng tới hiệu quả và tốc độ tái cấu trúc.
Nhận thức được điều này sẽ giúp ta phát huy những ảnh hưởng tích cực từ chế độ xã hội và đặc điểm
của nền kinh tế tới tái cấu trúc và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực.
- Cải cách quản trị công ty đóng vai trò quan trọng trong tái cấu trúc, góp phần đảm bảo thành
công của công cuộc cải cách vì đây là biện pháp giải quyết những yếu kém căn bản của hệ thống
ngân hàng phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng thương mại nhà nước và kém hiệu quả.
- Những hạn chế của luật pháp như thiếu các quy định phù hợp thủ tục về thanh lý tài sản,
luật phá sản, việc chậm trễ và thiếu kinh nghiệm của tòa án đối với quá trình xử lý phá sản và vấn đề
thanh toán là trở ngại trong quá trình tái cấu trúc. Do vậy, để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thành
công, cần kết hợp các biện pháp tài chính với những cải cách về các quy định và luật pháp. Đặc biệt,
cải cách về quản trị trong ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong tái cấu trúc.
- Chính phủ nên làm rõ việc phân bổ chi phí tái cấu trúc ngân hàng và cam kết cung cấp đủ số
lượng các nguồn lực tài chính cần thiết. Nếu chi phí phân bổ không được làm rõ, việc tái cấu trúc
tiếp tục bị trì hoãn do thiếu kinh phí cuối cùng sẽ phải chịu gánh nặng tài chính lớn hơn.2.2. Mô hình
“cấp mới”: Trường hợp nghiên cứu của hệ thống NH Nga
2.2.1. Hệ thống ngân hàng của Nga trước cải cách

Phá sản và Luật tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng như sửa đổi các văn bản pháp lý liên quan.
Thứ ba, một khuôn khổ thể chế phù hợp là cần thiết, bao gồm việc tăng cường năng lực thanh
tra, giám sát của NHTW cũng như thành lập một cơ quan giám sát sự phục hồi của các NHTM trong
quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Một Ủy ban tái cấu trúc hệ thống ngân hàng (IACC) có chức
năng, nhiệm vụ trong công tác tư vấn cho Chính phủ về mặt kỹ thuật cũng được thành lập.
b)Kết quả:
Trong năm 1999, hai ngân hàng lớn của Nga bao gồm (Mentep và Promstroi) đã tuyên bố
phá sản và tiến hành các thủ tục theo Luật Phá sản. Cũng trong năm này, NHTW Nga đã rút giấy
phép của hơn 20 NHTM và tái cấu trúc lại 03 NHTM khu vực lớn của Nga. Đối với các NHTM nhỏ,
Chính phủ Nga khuyến khích tái cơ cấu trên cơ sở tự nguyện sáp nhập hoặc được mua lại bởi các
NHTM lớn. Bên cạnh đó, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng cũng được củng cố lại trên cơ sở
củng cố các nghiệp vụ của các Vụ, Cục liên quan đến hoạt động thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa và
cấp giấy phép thành lập các NHTM dưới sự giám sát chặt chẽ của một Phó Thống đốc NHTW, các
chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS) cũng từng bước được áp dụng với lộ trình thực hiện vào cuối
năm 2000 và kết thúc vào cuối năm 2001.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm từ cải cách hệ thống ngân hàng Nga
a. Thiết lập khung thể chế cho nền kinh tế thị trường
b. Khu vực ngân hàng phải được làm sạch và tái cơ cấu, sao cho nó có thể hoạt động trên những
nguyên tắc hoạt động ngân hàng thương mại, thận trọng.
c. Các nước chuyển đổi thành công đều nhận thức đúng về sự cần thiết chuyển đổi và có cách tiếp
cận hợp lý về cải cách và mở cửa, đặc biệt là vai trò của Chính phủ trong các quyết sách này.

Chương 3
Một số hàm ý chính sách cho việc cải cách hệ thống NHTM của Việt Nam.
3.1. Điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
* Điểm mạnh:
- Hệ thống mạng lưới và khách hàng quen thuộc.
- Thị phần lớn và ổn định.
- Môi trường pháp lý thuận lợi.
* Điểm yếu

gặp khó khăn về thanh khoản.
Giai đoạn 2: Rà soát khuôn khổ pháp lý và phân loại ngân hàng
- Rà soát khuôn khổ pháp lý
- Rà soát chất lượng tài sản và phân loại ngân hàng
Giai đoạn 3: Cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém
- Sáp nhập và hợp nhất các ngân hàng yếu kém:
Sau khi đánh giá được mức vốn thực có của các NHTM sau khi đã bù đắp các khoản thiệt hại
về nợ xấu và dự phòng, hầu hết Chính phủ và NHTW các nước thực hiện tái cấu trúc đều mạnh tay
cơ cấu lại các NHTM yếu kém trên cơ sở sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng yếu kém hoặc yêu cầu
tăng vốn để tăng cường năng lực cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong một vài trường
hợp phải áp dụng biện pháp hành chính để buộc các NHTM phải tăng vốn hoặc phải sáp nhập lại với
nhau để đảm bảo mức vốn tối thiểu an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, thậm chí rút giấy
phép hoặc đóng cửa cũng như buộc phải tuyên bố phá sản.
- Mua lại ngân hàng, quốc hữu hóa một phần, góp vốn:
Việc Chính phủ mua lại hoặc đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng yếu kém là một
trong những giải pháp tạm thời cuối cùng đối với các NHTM không có khả năng sáp nhập hoặc hợp
nhất, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải thực hiện nghĩa
vụ này.
Trong một số trường hợp, sau khi rà soát và xác định nhóm các ngân hàng yếu kém, Chính
phủ có thể tiến hành kêu gọi các nhà đầu tư bên ngoài đồng tài trợ hay góp vốn cùng Chính phủ để
khôi phục hoạt động của các ngân hàng xấu. Nguồn vốn này thường được trích ra từ các quỹ đặc biệt
do Chính phủ lập ra để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
- Mở rộng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong thời gian nhất định: Đây
l
à

biện
pháp mà
Ngân
hàng

3.4. Một số kiến nghị về các giải pháp thực hiện
3.4.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.4.1.1. Nâng cao tính độc lập, tự chủ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.4.1.2. Giải pháp tổng thể nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
3.5.2. Đối với các NHTM Việt Nam
- Phục hồi lòng tin vào hệ thống ngân hàng
- Thực hiện tái cấu trúc sở hữu vốn; công nghệ; nguồn nhân lực của từng ngân hàng phải được thực
hiện ở bước tiếp theo.
- Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro trong ngân hàng.
- Động lực để phát triển hiệu quả và bền vững ngân hàng là nguồn nhân lực ngân hàng. Vì vậy, vấn đề cơ
cấu lại nguồn nhân lực đi đôi với tuyển dụng mới, đào tạo và đào tạo lại chuyên môn, nghiệp vụ, đào tạo
các kỹ năng quản lý, điều hành ngân hàng một cách thường xuyên, cùng với việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho cán bộ, người lao động là rất cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống./.

References.
Tiếng Việt:
1. Quách Mạnh Hào” (15/12/2011), “Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay”,
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN, Công ty Chứng khoán Thăng Long.
2. Phạm Bảo Khánh, “ Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng Trung Quốc- vai trò của quản trị công ty”,
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
3. Nguyễn Phi Lân, “Kinh nghiệm các nước trong khu vực và Đông Âu về tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Lê Hoàng Nga, “Một vài hướng đi trong tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
gian tới”, Trung tâm NCKH & Đào tạo Chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
5. Nguyễn Thị Mùi , “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cần đặt trọng tâm vào tính hiệu quả và sự phát
triển bền vững”, Trường Đào tạo và phát triển Nguồn nhân lực, Vietinbank.
6. Đặng Hoàng Thanh Nga, “Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của một số quốc gia và
hàm ý đối với Việt Nam”, Viện Kinh tế- Học viện Chính trị, Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Hoàn Trần và Thuân Nguyễn (2011), “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt nam theo hướng nào”,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status