sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật việt nam - Pdf 10

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo đã giành đợc những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nớc đã có nhiều khởi sắc, đợc nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.
Chủ trơng hợp tác đầu t với nớc ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý và thị trờng thế giới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã đợc xác định và cụ thể hóa trong các văn kiện
của Đảng. Thể chế hóa chủ trơng của Đảng, Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam đợc ban hành năm 1987, mở đầu cho việc thu hút có hiệu quả và sử dụng
nguồn vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài theo phơng châm đa dạng hóa, đa phơng
hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần thực hiện chủ trơng phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Trong gần mời lăm năm qua, đầu t trực tiếp nớc ngoài đã đạt đợc
những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trởng kinh tế,
thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH, HĐH, mở rộng thị
trờng xuất khẩu, tạo việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nớc. Khu
vực các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài là một bộ phận của nền kinh tế
đang kinh doanh năng động, hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lợng trí
tuệ và chất lợng cao, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động hội nhập với
kinh tế khu vực và thế giới.
Trong các thành tựu nói trên, pháp luật đầu t nớc ngoài có sự đóng
góp to lớn. Pháp luật đầu t nớc ngoài đã tạo dựng đợc khung pháp lý cơ bản,
điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài phù hợp với đờng lối, chính
1
sách của Đảng về mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng về cơ bản yêu
cầu của thực tiễn, ngày càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và có sức hấp
dẫn đối với các nhà đầu t nớc ngoài.
Tuy nhiên, nhu cầu tiếp tục đổi mới toàn diện nền kinh tế, đẩy mạnh
CNH, HĐH, chủ động hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra

nhà nớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam Cha
có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về sự hình
thành và phát triển của Luật Đầu t nớc ngoài trong hệ thống pháp luật Việt
Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống
sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài, đánh giá đúng thực
trạng, dự báo xu hớng phát triển và kiến nghị phơng hớng, nội dung hoàn
thiện pháp luật đầu t nớc ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian
tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt đợc mục đích trên, việc nghiên cứu luận án có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm: Đầu t nớc ngoài, pháp luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam; đặc điểm của pháp luật đầu t nớc ngoài và vai trò, vị trí
của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc
ngoài qua từng thời kỳ lịch sử; đánh giá thực trạng của pháp luật đầu t nớc
ngoài về cả u điểm và hạn chế.
- Dự báo phơng hớng phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài và từ đó,
3
kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Đối tợng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu t n-
ớc ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đề tài đợc nghiên cứu dới góc độ lý luận chung về Nhà nớc và pháp
luật. Thuật ngữ "Luật Đầu t nớc ngoài" đợc hiểu theo nghĩa rộng gồm ba bộ
phận: thứ nhất, đạo luật về đầu t trực tiếp nớc ngoài (đợc Quốc hội ban hành
năm 1987 và 1996 cũng nh các đạo luật sửa đổi, bổ sung hai đạo luật này) và

góp mới của luận án:
1. Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của pháp luật đầu t nớc ngoài ở
Việt Nam và vai trò, vị trí của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ năm 1975 đến nay.
3. Đánh giá thực trạng của pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành xét
trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam, phân tích những u điểm và hạn
chế của nó và dự báo xu hớng phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài.
4. Đề cập các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài, đồng
thời dự báo lộ trình và nội dung hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài trong
thời gian tới.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thông qua những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của luận án, tác giả
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng lý
luận và thực tiễn về hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt Nam nói
5
chung và pháp luật đầu t nớc ngoài nói riêng. Với việc dự báo xu hớng và đề
xuất các giải pháp phát triển pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành, tác giả hy
vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc đổi mới pháp luật đầu
t nớc ngoài trong khuôn khổ đổi mới hệ thống pháp luật nói chung của Việt
Nam, theo hớng tạo môi trờng đầu t thông thoáng, hấp dẫn hơn đối với các
nhà đầu t nớc ngoài, tạo sức cạnh tranh cao hơn trong việc thu hút đầu t trực
tiếp nớc ngoài so với các nớc trong khu vực. Vì vậy, luận án có thể đợc sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy về lý luận pháp
luật đầu t nớc ngoài cũng nh đào tạo cán bộ chuyên ngành về pháp luật đầu t
nớc ngoài thuộc các ngành Kế hoạch và Đầu t, T pháp, Tài chính, Địa chính,
Hải quan, Thơng mại
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 187 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận án có 3 chơng, 9 mục.

t ra nớc ngoài, thời gian đầu thờng là vào các nớc lạc hậu hơn, vì ở đó các yếu
tố đầu vào của sản xuất còn rẻ, lợi nhuận thu đợc thờng cao hơn.
Khi đa ra "Chính sách kinh tế mới" V.I. Lênin đã cho rằng, những ng-
ời cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật
của chủ nghĩa t bản thông qua hình thức "t bản nhà nớc". Theo quan điểm
này, nhiều nớc đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa t bản để
phát triển kinh tế, vì nh thế có thể đi nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay
vốn để mua lại kỹ thuật của các nớc công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ
"bóc lột" của các nớc t bản cũng còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội của các nớc tiếp nhận t bản. Nếu nh trớc đây, hoạt động xuất khẩu
t bản của các nớc đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ, thì ngày
nay, các nớc nhận đầu t đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động
đầu t trực tiếp nớc ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của chính phủ n-
ớc sở tại và thông lệ quốc tế.
Một khó khăn lớn của hầu hết các nớc đang phát triển trong đó có nớc
ta là thiếu vốn đầu t. Có thể nói, vốn đầu t là yếu tố quyết định để các nớc này
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của nhân dân.
ở các nớc đang phát triển, nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên thờng
cha đợc sử dụng hết hoặc không đợc sử dụng vì thiếu các điều kiện vật chất
cho quá trình lao động, sản xuất. Bản thân các nớc đang phát triển lại ít có
khả năng tự tích lũy vì năng suất lao động thấp, sản xuất hầu nh không đủ đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Trong hoàn cảnh nh vậy, nguồn vốn từ bên
ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bớc phát triển ban đầu của các nớc
này. Đặc biệt, trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới hiện nay, các
nớc đang phát triển bị đặt vào tình huống phải tạo đợc tốc độ phát triển nhanh
để đuổi kịp các nớc phát triển và từng bớc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Nguy cơ tụt hậu không cho phép các nớc đang phát triển đợc chậm trễ hay có
8
cách lựa chọn nào khác. Trong điều kiện thế giới và khu vực có nhiều quốc gia
có nhu cầu đầu t ra nớc ngoài, thì các nớc đang phát triển có cơ cơ hội tranh

1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu t nớc ngoài bằng
pháp luật
Trong xã hội, pháp luật là một phơng tiện quan trọng bậc nhất không
thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội,
bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà
nớc và xã hội đặt ra. Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc
hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 10 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992, tại Điều 2 quy định: "Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân" và Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nớc
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cờng pháp chế XHCN ".
Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
nói riêng, là chức năng cơ bản hàng đầu của Nhà nớc trong điều kiện lịch sử
hiện nay. Để thực hiện chức năng này, Nhà nớc phải nhận thức đúng đắn các quy
luật khách quan của sự vận động kinh tế - xã hội, xây dựng chiến lợc thu hút đầu
t trực tiếp nớc ngoài, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nớc và các
điều kiện quốc tế, sử dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính
sách và các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biện pháp để Nhà
nớc điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc
ngoài bằng pháp luật đợc thể hiện ở một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nớc, luôn luôn gắn
liền với Nhà nớc và chỉ Nhà nớc mới sử dụng công cụ pháp luật. Nhà nớc điều
chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngời, trong đó có
hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng quyền lực nhà nớc. Quyền lực nhà n-
10
ớc khác với các quyền lực khác ở chỗ, nó đợc thực hiện bằng một cơ chế thực
thi pháp luật. Nhờ có quyền lực nhà nớc, giai cấp thống trị thực hiện những
lợi ích của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng ý

nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội. Chính vì vậy,
chúng tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của GS.TSKH Đào Trí úc: "Nhà nớc chỉ
có thể thể hiện đợc ý chí phổ biến và uy quyền công khai của mình qua một
loại đại lợng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung. Đó là pháp luật" [84,
tr. 205].
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trờng, sự tồn tại của pháp luật là một nhu
cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là
điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp. ở thời kỳ này, sự tồn tại của
pháp luật nh quan điểm của PGS.TS Chu Hồng Thanh, là: "một nhu cầu chủ
quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nớc, là một phơng tiện trong tay
Nhà nớc để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý
chí" [79, tr. 29].
Đối với hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật đầu t nớc ngoài
đợc hình thành trên cơ sở những đòi hỏi của quan hệ đầu t trực tiếp nớc ngoài,
tồn tại nh một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối ngoại.
Pháp luật đầu t nớc ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, mà dựa vào
đó các nhà đầu t nớc ngoài tìm đợc "sân chơi", các nhà quản lý có phơng tiện
để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu t nớc ngoài là mực thớc để phân
định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài
cho phù hợp với nhu cầu xã hội.
Sự điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật phải
bảo đảm cho hoạt động đầu t vận động theo đúng những quy luật khách quan,
không thể áp đặt và thay thế các quy luật khách quan ấy. Bằng pháp luật, Nhà
nớc tạo môi trờng và hành lang pháp lý để chủ thể quan hệ đầu t nớc ngoài có
thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không
12
làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội. Bằng pháp luật,
Nhà nớc xác định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp có vốn đầu t trực tiếp n-
ớc ngoài, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nớc về đầu t trực tiếp nớc
ngoài và thẩm quyền của các cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp

hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô
hình thì lại cha đợc đề cập đến. Trong tài liệu Hội thảo về thơng mại và phát
triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), khái niệm đầu t trực
tiếp nớc ngoài đợc hiểu rộng hơn khái niệm trên: "Đầu t với mục đích thiết lập
các quan hệ kinh tế bền vững với một công việc kinh doanh, đem lại khả năng
thực hiện một ảnh hởng có hiệu quả đối với quản lý của việc đầu t ấy" [106, tr.
17]. Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu t thơng mại và
các thỏa thuận chính sách quốc tế", không đa ra khái niệm đầu t, nhng có đa
ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu t trực tiếp nớc ngoài: "là một khoản
đầu t liên quan đến các quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự
kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu t nớc ngoài hay công
ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh
tế của nớc có nhà đầu t trực tiếp nớc ngoài" [108, tr. 219-220].
Dới góc độ khoa học, khái niệm đầu t đợc hiểu trong mối quan hệ với
các khái niệm khác thuộc phạm trù kinh tế thị trờng. Cuốn Từ điển kinh
doanh xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân Đôn năm 1982 đã đa ra các khái
niệm khác nhau về đầu t (investment) nh: "đó là việc dùng tiền để nhận đợc
thu nhập hoặc lợi nhuận; đó là tiền đợc đầu t" [105, tr. 255].
ở nớc ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu t nớc ngoài đã chính thức
đợc ghi nhận trong Điều lệ Đầu t của nớc ngoài ở nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam đợc ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi
tắt là Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977):
Đợc coi là đầu t của nớc ngoài ở Việt Nam việc đa vào sử
14
dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng
những cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở
hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ
dùng cho việc thí nghiệm), phơng tiện vận tải, vật t kỹ thuật cần
thiết cho mục đích nói trên;

tô nhợng hoặc các hợp đồng tơng tự khác; tài sản hữu hình, gồm cả bất động
sản và tài sản vô hình, gồm cả các quyền nh giao dịch thuê, thế chấp, cầm cố
và quyền lu giữ tài sản; quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả và các quyền
có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, thiết kế bố trí, mạch tích hợp, tín
hiệu vệ tinh mang chơng trình đã đợc mã hóa, thông tin bí mật (bí mật thơng
mại, kiểu dáng công nghiệp và quyền với giống cây trồng và các quyền theo quy
định của pháp luật nh các giấy phép và sự cho phép".
Dới góc độ khoa học, theo quan điểm của chúng tôi, đầu t (investment) là
việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản
xuất lớn hơn. Dới góc độ của doanh nhân hoặc doanh nghiệp, đầu t là việc đa
vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu t bao
gồm tiền và các tài sản khác nh động sản, bất động sản, tài sản hữu hình, tài
sản vô hình
Nh vậy, ngoài những khái niệm về đầu t nớc ngoài đã đợc trình bày ở
trên, về mặt lý luận, có thể đa ra khái niệm đầu t nớc ngoài nh sau: đầu t nớc
ngoài là việc nhà đầu t của nớc này đa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào n-
ớc khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhằm thu lợi
nhuận.
Trong khái niệm này, yếu tố nớc ngoài trong đầu t nớc ngoài đợc thể
hiện ở hai dấu hiệu đặc trng chính, một là: có sự tham gia của chủ thể nớc
16
ngoài và hai là: có sự di chuyển vốn từ nớc này sang nớc khác.
Đầu t nớc ngoài đợc phân làm hai loại: đầu t nớc ngoài trực tiếp và
đầu t nớc ngoài gián tiếp. Đầu t trực tiếp nớc ngoài là loại hình kinh doanh,
trong đó nhà đầu t nớc ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh
cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê ngời quản lý
cơ sở này (đầu t 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của
nớc sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh
doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này.
Đầu t gián tiếp nớc ngoài là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t nớc ngoài bỏ

ngoài và nhà đầu t trong nớc cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh
doanh có t cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t
nớc ngoài và nhà đầu t trong nớc cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp đồng,
mỗi bên giữ t cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.
Phơng thức đầu t
Ngoài khái niệm các hình thức đầu t, còn có khái niệm phơng thức
đầu t. Phơng thức đầu t là cách tổ chức đa vốn vào kinh doanh của nhà đầu t
nớc ngoài. Hiện nay, theo pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam có các ph-
ơng thức sau:
- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phơng thức
nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt Nam
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, lợi
nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó
cho Nhà nớc Việt Nam [5, tr. 4].
18
- BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phơng thức
nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt Nam
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu t nớc
ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nớc Việt Nam. Nhà nớc Việt Nam
dành cho nhà đầu t quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất
định để thu hồi vốn và lợi nhuận [5, tr. 4].
- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phơng thức nhà đầu t ký
kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu t nớc ngoài chuyển giao công
trình đó cho Nhà nớc Việt Nam. Nhà nớc Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu
t nớc ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu t và lợi nhuận [5, tr. 4].
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh
giới địa lý xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [5, tr. 4].

nơi giao thoa của nhiều ngành luật khác nhau nh Luật Kinh tế, Luật T pháp
quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Đất đai
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ t, bởi lẽ:
Thứ nhất, quan điểm thứ nhất thiếu tính thuyết phục, bởi lẽ nếu giả
định pháp luật đầu t nớc ngoài là một ngành luật độc lập, thì nó phải có đối t-
ợng, phơng pháp, điều chỉnh đặc thù và phải tồn tại trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, phơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài thực chất
cũng là phơng pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế hoặc T pháp quốc tế mặc
dù việc sử dụng có khác nhau về cấp độ, cho nên không thể nói có đặc thù
hoàn toàn riêng. Mặt khác, pháp luật đầu t nớc ngoài không thể tồn tại lâu
dài, bởi lẽ trong xu thế của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đầu t nớc ngoài
và đầu t trong nớc ngày càng xích lại gần nhau và sẽ có mặt bằng pháp lý
chung. Nói cách khác, trong tơng lai gần, ở nớc ta có thể sẽ không tồn tại
20
pháp luật đầu t nớc ngoài mà chỉ có pháp luật khuyến khích đầu t nớc ngoài
hoặc pháp luật đầu t chung cho cả đầu t trong nớc và đầu t nớc ngoài. Hiện
tại, do nớc ta đang rất cần vốn đầu t nớc ngoài, kết cấu hạ tầng thấp kém so
với các nớc trong khu vực, nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập, nên nớc
ta vẫn phải có cả Luật Đầu t nớc ngoài và Luật Khuyến khích đầu t trong nớc.
Nếu so sánh với các nớc phát triển nh Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa
Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức thì ở các nớc này không có pháp luật đầu t
nớc ngoài mà chỉ có pháp luật đầu t chung cho cả trong nớc và nớc ngoài với
nhiều tên gọi khác nhau, thí dụ: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ gọi là Luật Công ty,
Cộng hòa Liên bang Đức gọi là Luật Kinh doanh. Các nớc trong khu vực tơng
đối phát triển nh Singapore, Hàn Quốc cũng không có Luật Đầu t nớc ngoài
mà chỉ có Luật Khuyến khích đầu t nớc ngoài.
Mặt khác, pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam không chỉ thuần túy
là Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc ban hành năm 1987, 1996 và các
văn bản hớng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các đạo luật khác nh
Luật Phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự cũng nh trong

Bộ phận thứ hai: là các chế định có liên quan đến đầu t nớc ngoài đợc
quy định trong các đạo luật khác.
Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu t nớc
ngoài đợc quy định trong các điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia.
Pháp luật đầu t nớc ngoài đợc hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm đạo
luật Đầu t nớc ngoài và các nghị định, thông t hớng dẫn thi hành trực tiếp.
Về đối tợng điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài
Lý luận chung về Nhà nớc và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tợng điều
chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội, nhng không phải là tất cả các quan
22
hệ xã hội. Pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội có liên quan đến đời
sống cộng đồng, liên quan tới việc củng cố địa vị và lợi ích của công dân
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội còn những quan hệ xã
hội nh quan hệ tình cảm, quan hệ trong phạm vi nội bộ của các tổ chức xã
hội không chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Đối tợng điều chỉnh của pháp
luật có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào ý thức chủ
quan của giai cấp thống trị và các điều kiện chính trị, xã hội khác.
Trên quan điểm nh vậy, đối tợng điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc
ngoài là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam. Các quan hệ này bao gồm:
- Quan hệ giữa nhà đầu t nớc ngoài với Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền, trong quá trình tìm hiểu môi
trờng đầu t, cấp Giấy phép đầu t và quản lý các hoạt động đầu t nớc ngoài ở
Việt Nam.
- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu t nớc ngoài với
nhà đầu t trong nớc.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với các tổ chức,

Đây cũng là phơng pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế, Luật Dân sự,
Luật Lao động Quan hệ đầu t nớc ngoài là quan hệ tự nguyện đợc thiết lập
trên cơ sở thỏa thuận về hình thức đầu t, nội dung, mục tiêu, thời hạn đầu t.
Trong cơ chế thị trờng, không chủ thể nào trong quan hệ kinh tế nói chung,
quan hệ đầu t nớc ngoài nói riêng có quyền ra lệnh, bắt buộc chủ thể khác
phải làm theo ý mình; các chủ thể đều phải tuân theo các quy luật kinh tế
khách quan. Nhà nớc hoặc các chủ thể trong nớc có thể đa ra danh mục kêu
24
gọi đầu t, nhng nhà đầu t nớc ngoài có quyền quyết định có đầu t vào nớc sở
tại hay không. Để đạt đợc sự thỏa thuận, các bên phải có sự bàn bạc, trao đổi,
có những sự nhân nhợng cần thiết theo nguyên tắc đảm bảo các bên đều có
lợi. Vấn đề quan trọng là biết thỏa thuận sao cho phù hợp với lợi ích của mỗi
bên. Những yêu cầu mang tính chất áp đặt của bất cứ bên nào, đều không thể
dẫn đến quá trình đầu t. Nếu ta quá nhân nhợng, sẽ dẫn đến vi phạm nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nhng nếu không chú ý đúng mức đến lợi ích
của nhà đầu t nớc ngoài, cũng không thể thu hút họ vào đầu t ở nớc ta.
Quan hệ đầu t nớc ngoài diễn ra theo những quy luật khách quan của
nền kinh tế thị trờng, cho nên Nhà nớc không thể can thiệp trực tiếp vào hoạt
động sản xuất - kinh doanh của họ, mà chỉ tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động đầu t nớc ngoài. Vấn đề ở chỗ, Nhà nớc chỉ can thiệp bằng biện pháp
hành chính trong các trờng hợp cần thiết liên quan đến các vấn đề quan trọng
của quốc gia và trong trờng hợp các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài vi
phạm các quy định của pháp luật. Do đó, các thủ tục pháp lý cần đợc quy
định rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Pháp luật với tính chất là một bộ phận
quan trọng của môi trờng đầu t, về lâu dài phải tạo ra "sân chơi" bình đẳng
cho các nhà đầu t nớc ngoài và các nhà đầu t trong nớc.
Phơng pháp thứ hai - phơng pháp mệnh lệnh hay còn gọi là phơng
pháp bắt buộc
Phơng pháp mệnh lệnh là phơng pháp điều chỉnh của một số ngành
luật có mối quan hệ tơng tác, giao thoa với pháp luật đầu t nớc ngoài nh Luật


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status