Tài liệu Báo cáo "Về hoạt động cho thuê tài chính " - Pdf 10



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 35

về hoạt động cho thuê tài chính

ThS. Phạm Giang Thu *
ừ cuối năm 1995, hoạt động cho
thuê tài chính bắt đầu đợc thực
hiện bởi các tổ chức tín dụng Việt
Nam. Cơ sở pháp lí của hoạt động này là
Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 do
Chính phủ ban hành và một số văn bản
khác do Thống đốc Ngân hàng nhà nớc
ban hành mà tiêu biểu là Thông t số
03/TT-NH5 ngày 9/2/1996 hớng dẫn
thực hiện Nghị định số 64/CP. Mặc dù là
hình thức kinh doanh mới mẻ nhng đến
nay, nhiều công ti cho thuê tài chính đ
đợc thành lập và đi vào hoạt động. Công
ti cho thuê tài chính đợc tổ chức và hoạt
động dới nhiều hình thức khác nhau nh
công ti con của ngân hàng thơng mại,
doanh nghiệp liên doanh hay doanh
nghiệp 100% vốn nớc ngoài (công ti cho
thuê tài chính thuộc ngân hàng ngoại
thơng, công ti cho thuê tài chính thuộc
ngân hàng công thơng, ngân hàng đầu t
và phát triển hay ngân hàng nông
nghiệp ). Hệ thống các công ti cho thuê

hữu tài sản của mình. Nh vậy, đối với tài
sản hình thành từ cho thuê tài chính bắt
buộc phải nộp lệ phí trớc bạ tối thiểu là
hai lần. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là
nếu so sánh tài sản cố định do vay vốn để
mua tài sản với tài sản có từ hoạt động
thuê tài chính, giá cả (bao gồm giá mua
ban đầu và các chi phí khác có liên quan)
thì thấy có sự khác biệt lớn. Chi phí cho
tài sản thuê thực tế lớn hơn nhiều so với
tài sản mua từ vốn vay, làm cho hoạt
động cho thuê tài chính với t cách là loại
hình kinh doanh mới gặp khó khăn so với
loại hình cho vay thông thờng bởi vì bất
kì chủ thể kinh doanh nào cũng phải lựa
chọn cách thức để sở hữu tài sản với chi
phí thấp nhất. Thêm nữa, đối tợng phục
* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế
Trờng đại học luật Hà Nội
T
TT
T nghiên cứu - trao đổi
36 - tạp chí luật học


trừ phạm vi toàn quốc (pháp luật không
hạn chế phạm vi cho vay theo lnh thổ
đối với các tổ chức tín dụng cho thuê)
theo định kì phải di chuyển tài sản thuê
về nơi đăng kí tài sản để kiểm tra (đặc
biệt là các phơng tiện vận chuyển). Theo
ý kiến chúng tôi, quy định này gây khó
khăn cho cả bên thuê và bên cho thuê,
nếu thực hiện đúng quy định của pháp
luật về nội dung này thì chi phí cho tài
sản thuê sẽ rất lớn và không có tính khả
thi. Chúng ta giả định, công ti cho thuê
tài chính thuộc ngân hàng ngoại thơng
(có trụ sở chính đóng tại Hà Nội) cho
công ti xây dựng đóng tại Sóc Trăng thuê
một số ô tô, cần cẩu và lô hàng này đợc
sử dụng tại Kiên Giang, việc kiểm tra
định kì tại Hà Nội đối với những phơng
tiện đó sẽ rất khó thực hiện. Còn trong
trờng hợp để tiết kiệm chi phí, tài sản
thuê không chuyển về nơi đăng kí thì cơ
quan có thẩm quyền lại không giám sát
đợc tình trạng thực tế của tài sản, có
khả năng gây nguy hiểm cao độ trong
quá trình vận hành. Nh vậy, cả hai tình
huống trên đều có những tồn tại nhất
định, nên chăng chúng ta cho phép đối
với những tài sản thuê phải đăng kí
quyền sở hữu có thể thực hiện dựa trên
sự lựa chọn hoặc nơi đóng trụ sở chính

tổng số tiền thuê phải trả nh trên, bên
thuê phải trả tới 1,5 lần tổng giá trị tài
sản. Nếu chiểu theo quy định của pháp
luật trong những trờng hợp này không
thể áp dụng đợc. Theo chúng tôi, nên
quy định tổng số tiền thuê phải trả ít nhất
tơng đơng với giá trị đầu t của tổ chức
tín dụng cho thuê vào tài sản tại thời điểm
chuyển giao tài sản cho bên thuê. Nếu
quy định nh vậy, nghĩa vụ trả tiền thuê
của bên thuê tài sản luôn tơng ứng với
phần tín dụng đợc cung cấp bởi các
công ti cho thuê tài chính.
Thứ t, quy định về thời gian thuê.
Nghị định số 64/CP quy định thời gian
thuê tối thiểu là 60% thời gian cần thiết
để khấu hao tài sản thuê. Tuy nhiên, trong
thực tế, quy định này gây khó khăn lớn
cho các công ti cho thuê vì có những tài
sản có giá trị lớn, có khả năng chuyển
nhợng dễ dàng và là tài sản có nhu cầu
sử dụng của nhiều tổ chức kinh tế nhng
mỗi chủ thể chỉ cần sử dụng trong thời
gian ngắn. Trong trờng hợp có nhu cầu
thuê tài sản có giá trị lớn với thời gian
ngắn mà các đối tợng đó không thể tham
gia vào quan hệ thuê thì sẽ làm mất đi thị
phần đáng kể của thị trờng cho thuê tài
chính. Để khắc phục tình trạng này, theo
chúng tôi, có thể đặt ra một số khả năng

dẫn đến việc chậm trả, bên thuê có thể
làm đơn xin gia hạn nợ. Bên cho thuê có
thể gia hạn thêm nhng không đợc phép
gia hạn quá một kì trả nợ (thờng là 3
tháng). Nếu chúng ta so sánh quy định
này với quy định cho các hoạt động cho
vay thông thờng khác thì có sự không
phù hợp. Theo Quyết định số 324/1998/
QĐ-NH1 ngày 30/9/1998 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nớc Việt Nam, thời gian
gia hạn cho các khoản tín dụng có thể tới
1/2 thời gian cho vay, điều đó có nghĩa là
đối với các khoản vay trung, dài hạn (là
những khoản có thời hạn tơng tự nh
quan hệ cho thuê tài chính), bên cho vay
có thể gia hạn thêm nhiều kì trả nợ.
Chính điểm mâu thuẫn này đang làm
giảm sút nhanh chóng sự hấp dẫn của quan nghiên cứu - trao đổi
38 - tạp chí luật học

hệ cho thuê tài chính so với các hoạt động tín
dụng khác. Ngân hàng nhà nớc cần sớm có
quy định sửa đổi nội dung liên quan đến gia
hạn nợ trong quan hệ thuê mua tài chính
tơng đồng với quy định trong quan hệ cho
vay để tạo ra môi trờng bình đẳng cho các
chủ thể kinh doanh tín dụng.

không chỉ có nghĩa vụ mua bảo hiểm rủi ro
tài sản thuê mà còn phải mua bảo hiểm đối
với chính trách nhiệm chi trả thanh toán.
Biện pháp này có thể làm tăng chi phí kinh
doanh của bên thuê nhng sẽ là biện pháp
an toàn cho công ti cho thuê. Phần phí bảo
hiểm trách nhiệm chi trả có thể đợc san sẻ
giữa bên cho thuê và bên thuê. Đây không
phải là trờng hợp cá biệt trong hoạt động
tín dụng bởi lẽ nghĩa vụ mua bảo hiểm tiền
gửi của quỹ tín dụng nhân dân đ đợc thực
hiện trong nhiều năm nay.
Vấn đề khác liên quan đến xử lí tài sản
thuê là theo quy định hiện hành, việc mua
lại tài sản (nếu có) chỉ có thể đợc thực
hiện khi hết thời gian thuê. Thế nhng nếu
xem xét hoạt động cho thuê tài chính dới
góc độ là hình thức tín dụng thì nội dung
liên quan đến xử lí tài sản này là hình thức
hoàn tất nghĩa vụ trả nợ khoản vay cả gốc
và li. Theo Quyết định số 324/1998/QĐ-
NH1 ngày 30/9/1998 về tín dụng ngân
hàng, các khoản vay có thể đợc trả trớc
thời hạn nếu nh có sự chấp thuận của bên
cho vay. Nếu chúng ta quy định tơng tự
cho quan hệ cho thuê tài chính bằng việc
khuyến khích bên thuê mua lại tài sản trớc
thời hạn thì cơ hội thu hồi vốn đầu t trớc
hạn định của công ti cho thuê là chắc chắn
đồng thời bên thuê cũng giảm bớt chi phí


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status