Tài liệu Báo Cáo "Những Hoạt Động Huy Động Vốn Và Các Giải Pháp Huy Động Vốn Cho Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Nước Ta Hiện Nay" - Pdf 84



ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Những hoạt động huy động
vốn và các giải pháp huy động
vốn cho các doanh nghiệp Nhà
nước ở nước ta hiện nay Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng

LỜI NÓI ĐẦU Sau 10 năm thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta
đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN; các thành phần kinh tế được
bình đẳng và tự do cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật.
Cơ chế kinh tế mới đã có những tác động tích cực. Các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đã tăng nhanh cả số lượng lẫn chất lượng.
Song do nền kinh tế nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn

Việc tìm ra giải pháp về vốn cho doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề
hết sức khó khăn, phức tạp và phải tiến hành thường xuyên trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do thời gian và trình độ hạn chế
nên em không thể tránh khỏi những vướng mắc và khiếm khuyết. Em rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. Em xin
chân thành cảm ơn đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này
Hà nội tháng 9 năm 2001
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CHO SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP.

Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để
mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều
nguồn vốn khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn, người ta cũng
phân chia xí nghiệp theo nhiều loại khác nhau. Các nguồn hình thành vốn
bao gồm: Vốn do nhà nước cấp (vốn NSNN) vốn do chủ kinh doanh bỏ ra,
vốn liên doanh và vốn huy động. Việc bảo toàn và phát triển vốn được thực
hiện bằng các nguồn doanh thu bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ (khấu hao
và hoàn vốn lưu động) và từ các nguồn huy động bổ sung khác. Nói chung,
ở mỗi xí nghiệp, các nguồn vốn không đồng nhất, mà rất đa dạng và phong
phú. Do đó khái niệm các loại xí nghiệp được hình thành căn cứ vào nguồn
vốn chỉ có ý nghĩa tương đối.
Vốn NSNN được cấp phát cho các xí nghiệp của nhà nước. Trước đây
nguồn vốn này rất lớn và chiếm phần quan trọng trong tổng số chi ngân
sách của chính phủ. Với chính sách mở rộng hoạt động của các thành phần
kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc
dân, nguồn vốn cấp phát của NSNN cho đầu tư XDCB sẽ được thu hẹp về
tỷ trọng và khối lượng. Nguồn vốn bổ sung hoặc hoàn bù của các xí nghiệp
quốc doanh cũng được huy động từ nền kinh tế mà cấp phát từ NSNN như

qui luật vận động của tư bản (vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượng những
biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức
SLĐ
TLSX

Công thức đó đã chỉ ra rằng, bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực
hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua
T - H

...SX...H' - T'

Lý thuyết tiền tệ ngân hàng
- Sản xuất - Bán hàng. Và điều quan trọng đối với mỗi người sản xuất, mỗi
doanh nghiệp chính là phải biết phân bổ một cách hợp lý các yếu tố của
tiền vốn, đầu tư nhằm tạo ra nhiều của cải cho mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp và cả xã hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên
tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa
đi vào chu trình vận động liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh,
trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng chính nó
chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp
và toàn xã hội. Tích lũy vốn (tư bản) theo Mác là: "Sử dụng giá trị thặng dư
làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...". Từ
những phân tích khoa học chặt chẽ với những luận cứ xác đáng Mác đã chỉ
ra bản chất của quá trình tích lũy vốn trong các doanh nghiệp TBCN: "Một
khi kết hợp được với sức lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầu tiên
của của cải, thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu
tố tích lũy của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượng
của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những
tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra quyết định".
Yêu cầu khách quan của tích lũy vốn đã được Mác khẳng định do những

bằng tiền của người tiêu dùng sẽ là quá ít ỏi để có thể đầu tư ở những nơi
còn chưa có khả năng sản xuất ra tư liệu sản xuất".
Từ nhận định trên Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn và tổng số vốn như
sau: "Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, là phần thu
nhập thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, vốn được chia thành
hai phần: vốn cố định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất
bằng hiện vật được sản xuất trong khu vực sản xuất hay được nhập khẩu".
Và "Tổng số vốn tích lũy còn được gọi là tài sản quốc gia, được tích lũy từ
lượng sản phẩm vật chất hiện có và được trực tiếp sử dụng vào quá trình
sản xuất hiện tại, không kể tài nguyên thiên nhiên như đất đai và hầm mỏ vì
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng
nó không được tạo ra các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng được gọi là vốn
sản xuất không thể thiếu đối với việc nâng cao tổng lượng sản phẩm vật
chất". Qua đó chúng ta rút ra một số nhận xét theo quan niệm về vốn của
Sang Sung Part:
Một là: Vốn không chỉ biểu hiện bằng hiện vật hoặc dưới dạng tiền tệ.
Hai là: Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là những lượng tiền
mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là giá trị của những tài
sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất.
Ba là: Tiền chỉ là vốn nếu nó được tích lũy có mục đích đầu tư sinh lợi và
cũng chỉ trở thành vốn đầu tư để phát triển kinh tế nếu như trong nền kinh
tế đó có đủ khả năng để sản xuất ra tư liệu sản xuất, có đủ khả năng chuyển
đổi các khoản tiền tiết kiệm thành những tư liệu sản xuất trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất, nhưng phải là tiền vận
động đi vào sản xuất công nghiệp một cách có hiệu quả.
Mặc dù mỗi trường phái, mỗi nhà kinh tế học, ở mỗi thời kỳ lịch sử có
những quan niệm, phân tích, kết luận về vốn riêng, song chúng ta có thể rút
ra khái niệm về vốn trên cơ sở kế thừa một số các học thuyết kinh tế cuả
các nhà kinh tế học từ xưa đến nay như sau:


Theo kết quả đợt kiểm trra đánh giá lại tài sản và vốn của doanh nghiệp
Nhà nước tiến hành ngày 1/1/1996 thì tổng số vốn kinh doanh của 5775
doanh nghiệp Nhà nước đơn vị bàn giao là 68539 tỷ đồng (không kể giá trị
diện tích đất trong sử dụng.). Trong đó, doanh nghiệp TƯ 50761,8 tỷ,
doanh nghiệp địa phương 17778 tỷ đồng. Nếu trừ đI số vốn không hoạt
động, bao gồm giá trị tài sản chờ thanh lí, không cần sử dụng, nợ khó đòi,
nợ phải thu được khoanh lại thì số vốn thực sự hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp Nhà nước là 60459 tỷ đồng, bằng 88,2% số vốn hiện có. Nếu
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng
loại trừ giá trị tài sản bị mất mát, số tiền lỗ của doanh nghiệp còn treo trên
sổ sách thì số vốn thực sự hoạt động của doanh nghiệp còn ít hơn nữa.
- Trong số vốn thực sự hoạt động, vốn cố định là 53186 tỷ đồng, chiếm
88%; vốn lưu động là 7273 tỷ đồng, chiếm 12%. Ta thấy cơ cấu vốn như
thế là không hợp lí. Vốn lưu động chiếm tỉ lệ quá nhỏ so với tổng số vốn
của doanh nghiệp. Vốn lưu động do Nhà nước cấp chỉ đáp ứng được 20%
nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, trong đó, vốn lưu động thức sự hoạt động
mới chỉ đáp ứng được 10%. Như vậy, tình trạng thiếu vốn trong doanh
nghiệp là phổ biến và rất nghiêm trọng.
Nếu xem xét kĩ hơn về tài sản cố định ta thấy: trang thiết bị của doanh
nghiệp Nhà nước rất lạc hậu, chắp vá từ nhiều nguồn, nhiều nước khác
nhau. Theo điều tra của Tổng cục thống kê thì tình trạng kĩ thuật của đa số
máy móc thiết bị trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu khoảng 2-3
thế hệ, có lĩnh vực như đường sắt, cơ khí, công nghiệp đóng tàu... lạc hậu
4-5 thế hệ. Các doanh nghiệp Nhà nước địa phương chiếm tỉ lệ lớn nhưng
có trình độ công nghệ lạc hậu hơn so với doanh nghiệp Nhà nước TƯ.
Trong số các doanh nghiệp Nhà nước TƯ có 54,3% số doanh nghiệp ở
trình độ thủ công, 41% ở trình độ cơ khí, chỉ có 3,7% ở trình độ tự động
hoá. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có tới 94% số doanh
nghiệp ở trình độ thủ công, 2,4% ở trình độ cơ khí và chỉ có 2% ở trình độ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status