ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện phong điền tỉnh thừa thiên huế - Pdf 10

Luận Văn
Ảnh hưởng của các
loại thức ăn đến khả
năng sinh trưởng và
phát triển của tôm
chân trắng
(Litopenaeus
vannamei) nuôi tại
huyện Phong Điền
tỉnh Thừa Thiên Huế
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, song song với việc phát triển các ngành kinh tế
khác, nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng
cao đời sống và tạo việc làm cho người dân lao động. Trong đó tôm là mặt
hàng xuất khẩu quan trọng, được ưa chuộng trên thế giới.
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) là đối tượng nhập nội, có nguồn
gốc từ châu Mỹ. Tôm chân trắng là đối tượng mới có triển vọng phát triển rộng
rãi ở nhiều nước châu Á. Ưu điểm của nó là thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng,
mau lớn, thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và độ mặn rộng.[4]. Trong
thời gian qua, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III đã nghiên cứu sản xuất
giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển
đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được
cải thiện đã mở đường cho sự phát triển của tôm chân trắng.
Tôm chân trắng là loài có thể nuôi với mật độ cao, điều này đòi hỏi
người nuôi phải đầu tư đồng bộ về nhân lực cũng như khoa học kỹ thuật. Để
nâng cao năng suất và lợi nhuận, cần phải lựa chọn nguồn giống sạch bệnh,
chế độ chăm sóc quản lý chặt chẽ, kiểm soát tốt các yếu tố môi truờng và
quan trọng là phải sử dụng loại thức ăn phù hợp nhất.

Họ: Penaeidea
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei, Boone 1931.
2.1.2 Đặc điểm phân bố và nguồn gốc.
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở
ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung
Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã có mặt
hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các
nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á[4].
2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng
Cũng như các loài tôm he khác, tôm chân trắng phát triển qua 4 giai đoạn
ấu trùng chính là Nauplius, Zoea, Mysis, Postlarvae
Giai đoạn Nauplius: Nauplius không cử động được trong khoảng 30
phút, sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng. Nauplius thay vỏ
cả thảy 4 lần ( N
1
đến N
5
) mỗi lần kéo dài 7 giờ ( theo các nhà sinh học Đài
Loan thì có đến 6 giai đoạn ). Trong thời kỳ này ấu trùng cứ bơi một đoạn
rất ngắn rồi lại nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho Nauplius ăn, chúng tự
nuôi sống bằng noãn hoàng có sẵn.
Giai đoạn Zoea: sau N
5
ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea, giai đoạn này
ấu trùng bơi liên tục, bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là thực vật phù
du. Zoea thay vỏ hai lần từ Z
1
tới Z

pH 7,7 - 8,3
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm con ưa sống ở
các khu vực cửa sông giàu sinh vật thức ăn. Ban ngày tôm vùi mình trong
bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn. Tôm chân trắng có sự thích nghi rất mạnh
đối với sự thay đổi đột ngột của môi truờng sống. [4]
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm chân trắng là loài tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức
ăn của nó cũng cần thành phần: protid, lipid, vitamin và muối khoáng thiếu
hay không cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Khả
năng tiêu tốn thức ăn của tôm chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn
bình thường, lượng cho ăn chỉ cần bằng 5% thể trọng tôm (thức ăn uớt).
Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của
buồng trứng thì nhu cầu về lượng thức ăn hằng ngày tăng lên gấp 3 - 5 lần.
Thức ăn cần hàm lượng protein 35% là thích hợp, (tôm sú cần 40%, tôm
he Nhật Bản cần 60% protein). [4]
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng
biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28
o
C, độ mặn khá cao (35‰). Trứng nở
ra ấu trùng và vẫn sinh sống ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Postlarvae,
5
chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây
điều kiện môi trường rất khác biệt: thức ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt
độ cao hơn Sau một vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra
biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm trọn chu kỳ.
* Cơ quan sinh dục.
Tôm chân trắng Litopenaeus vannmei trưởng thành phân biệt rõ đực cái
thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài.
Con đực: Giữa đôi mái chèo thứ nhất có một cơ quan gọi là petasmata.

6
nước thấp hơn 15
o
C, cao hơn 33
o
C trong 24 giờ hoặc lâu hơn nữa, tôm sẽ ngạt
nếu nhiệt độ khoảng 15 – 22
o
C và 30 – 33
o
C. Với tôm chân trắng nhiệt độ
chấp nhận được là 23 – 30
o
C, trong khoảng nhiệt độ này độ lớn của tôm cũng
tuỳ giai đoạn tăng trưởng của tôm. Thí nghiệm cho biết, lúc còn nhỏ (1gr) tôm
lớn nhanh hơn ở 30
o
C, khi tôm lớn hơn(12 – 18gr) tôm lại lớn nhanh nhất ở
nhiệt độ 27
o
C thay vì 30
o
C như lúc còn nhỏ. Khi tôm lớn hơn nữa mà nhiệt độ
lại cao hơn 27
o
C thì môi trưòng nước này hoàn toàn bất lợi cho sự tăng
trưởng[14][13].
2.2.2. Độ mặn
Đây là yếu tố mà chúng ta có thể điều chỉnh được nếu có nguồn nước
ngọt và nước mặn dự trữ. Độ mặn có thể nuôi tôm chân trắng từ 10 – 30 ppt,

cao, NH
3
dạng khí sẽ nhiều và ít H
2
S hơn. Khi pH thấp thì H
2
S dạng khí nhiều
và ít NH
3
dạng khí.[5]
2.2.4. Độ kiềm
Độ kiềm là số đo tổng của carbonate và bicarbonate. Chúng có tác dụng
quan trọng trong nước thông qua khả năng làm giảm sự biến động của pH,
hạn chế các chất độc có sẵn trong ao nhằm không gây sốc cho tôm. Độ kiềm
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm, độ kiềm cao làm cho tôm
khó lột xác nhưng nếu độ kiềm nước ao thấp làm cho tôm khó cứng vỏ mỗi
khi lột xác. Trong nuôi tôm chân trắng, độ kiềm rất quan trọng vì chu kỳ lột
xác của chúng rất ngắn và thường xuyên, sau mỗi lần lột xác chúng sẽ hấp thụ
một lượng lớn độ kiềm trong nước để sử dụng trong việc kiến tạo vỏ mới, do
đó việc kiểm tra độ kiềm thường xuyên trong ao là rất cần thiết nhất là khi
tôm lớn. Độ kiềm thích hợp trong ao nuôi tôm từ 80 – 130 mg/l. [7], [14]
2.2.5. Oxy hòa tan (DO)
Hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết cho một ao nuôi tốt ở cả hai hệ
thống nuôi năng suất thấp và cao. Tác hại do hàm lượng oxy thấp tuỳ thuộc
vào hàm lượng oxy có trong ao, thời gian và số lần tôm phải chịu đựng tình
trạng đó. Ở nồng độ oxy nhỏ hơn 4mg/l tôm vẫn bắt mồi bình thường nhưng
chúng tiêu hóa thức ăn không hiệu quả. Hàm lượng oxy thấp như thế có thể
ảnh hưởng đến tôm và dẫn đến tăng tính cảm nhiễm bệnh. Tỷ lệ chuyển hoá
thức ăn giảm và khả năng cảm nhiễm bệnh tăng sẽ làm giảm lợi nhuận. Nếu
hàm lượng oxy giảm thấp hơn nữa (2 – 3 mg/l) thì tôm sẽ ngừng bắt mồi và

Gồm 3 chất chính: amonia (NH
4
+
), nitrite (NO
2
) và nitrate (NO
3
-
).
Amonia: Trong ao hồ, amonia xuất hiện như một sản phẩm do sự biến
dưỡng của động vật trong nước cũng như từ sự phân huỷ các chất hữu cơ với
tác dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia làm 2 nhóm:
nhóm NH
3
(khí hoà tan) và nhóm NH
4+
(ion hoá).
Chỉ có dạng NH
3
của amonia là gây độc cho tôm, NH
3
có tính độc cao
hơn NH
4+
từ 300 đến 400 lần. Sự phân chia này chịu ảnh hưởng của pH, nhiệt
độ và độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng 1 đơn vị pH
thì sẽ tăng 10 lần tỷ lệ của NH
3
. Độ độc của amonia gây ra không đáng ngại
lắm trong ao tôm vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton) sẽ giữ cho độ độc

ảnh hưởng tới độ độc của H
2
S, ví dụ: Với ao hồ có pH = 5 và ở 24
0
C người ta
thấy 99,1% Hydro sulfide dưới dạng H
2
S, trong khi đó ở độ pH=8 với cùng
nhiệt độ 24
0
C lại chỉ có 8% lượng Hydro sulfide dưới dạng chất độc. [14]
2.3. Những nghiên cứu về dinh dưỡng tôm chân trắng
2.3.1. Protein
Protein là vật chất hữu cơ quan trọng, là nguyên liệu tạo các mô và các
sản phẩm khác trong cơ thể. Protein là chất xúc tác, thực hiện chức năng vận
chuyển, bảo vệ.
Trong tình trạng suy dinh dưỡng protein đóng vai trò quyết định, nếu cơ
thể tôm thiếu sẽ kéo theo thiếu các chất dinh dưỡng khác, thiếu protein kéo
dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Để thoả mãn nhu cầu
protein ở tôm, ta có thể sử dụng các acid amin tổng hợp để cân đối nhu cầu
acid amin hoặc phối hợp các nguyên liệu.
Tôm chân trắng không cần khẩu phần ăn có lượng protein cao như tôm sú.
Theo nghiên cứu của Colvin and Brand (1977) là 30%, Kureshy and Davis
(2002) là 32%. Trong đó, thức ăn có lượng protein 35% được coi như là thích
hợp hơn cả, trong đó khẩu phần ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Men tiêu hoá protein của tôm chủ yếu ở dạng trypsine, không có pepsine
(Vonk, 1970). Ngoài ra trong dạ dày tôm có 85% số vi khuẩn tạo thành
chitinase. Ngoài việc cung cấp dinh dưỡng, quan trọng nhất là giúp tôm có
khả năng tiêu hoá chitinase một phức hợp của protein. [2]
2.3.2 Lipid

vitamin dùng cho tôm luôn có vitamin A và K. [2]
2.3.5. Khoáng.
Khoáng là những nguyên tố hoá học cần thiết để xây dựng nên cơ thể và
tham gia vào quá trình trao đổi chất của động vật. Tôm có khả năng hấp thụ
muối khoáng từ môi trường nước nên nhu cầu muối khoáng của tôm thấp và
khác với động vật trên cạn. Shewbartetal (1973) cho rằng nhu cầu Ca, K, Na
11
và Cl của tôm có thể thoả mãn do áp suất thẩm thấu. Photpho trong nước biển
thấp nhưng trong thịt tôm lại có nhiều, nên cần thêm photpho vào trong khẩu
phần thức ăn tôm hỗn hợp khoáng từ 2-5%. [2]
2.4. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới và Việt Nam
2.4.1. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới
Trên thế giới, sản lượng tôm chân trắng đứng hàng thứ hai sau tôm sú
nhưng ở châu Mỹ sản lượng tôm chân trắng đứng hàng đầu, đạt 86.000 tấn
(1990), 132.000 tấn (1992), 191.000 tấn (1998) và đạt gần 200.000 tấn năm
1999.[4]
Ecuador coi nuôi tôm chân trắng là ngành sản xuất lớn, sản lượng tôm
nuôi chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực châu Mỹ, năm 1991 là 103.000
tấn. Năm 1993, do gặp dịch bệnh hội chứng Taura (Taura Symdrome Virus)
sản lượng giảm còn 1/3, sau 2-3 năm khôi phục lại đạt 120.000 tấn (1998),
130.000 tấn (1999) rồi lại gặp đại dịch bệnh đốm trắng còn 35.000 tấn (2000).
[4]
Một số nước như Mexico, Panama, Eelize, Peru, Colombia… cũng có
tình hình phát triển tương tự Ecuador. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ
nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống
sang Hawaii . Từ đây tôm chân trắng lan sang Châu Á, Đông Nam Á. Nhiều
nước Đông Nam Á đã nhập tôm chân trắng để nuôi như: Philippin, Inđônêsia,
Malaixia, Thái Lan, Việt Nam với hy vọng đa dạng hóa các sản phẩm tôm
xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú hiện
nay. Tôm chân trắng được nhập khẩu vào Châu Á vì người ta nhận thấy một số

một số tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguồn tôm giống nhập ngoại chủ yếu từ
Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, trong đó nhiều nhất là Trung Quốc, chủ yếu nhập
qua đường tiểu ngạch, rất khó kiểm soát.
Tôm chân trắng được nuôi phổ biến trên cả nước tập trung tại các tỉnh
Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình, Quảng
Trị, Hà Tĩnh… Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh đến mức các Bộ, ngành và
chính quyền các cấp không thể kiểm soát được. Nếu như năm 2002, cả nước có
593,8 ha nuôi tôm trên cát thì đến năm 2003 tăng lên 1131 ha; đến hết năm
2005 diện tích nuôi tôm trên cát được các tỉnh miền trung đưa vào quy hoạch
hơn 20.000 ha.Theo thống kê của ngành Thủy sản, năm 2008 cả nước đạt sản
lượng 50.000 tấn tôm chân trắng. Năm 2009 sản lượng tăng lên gấp 10 lần.
Miền trung là khu vực có các điều kiện thích hợp cho tôm chân trắng phát triển.
13
Vùng sản xuất tôm giống lớn nhất ở miền Trung và cũng lớn nhất cả nước là
Tuy Phong tỉnh Bình Thuận, Cà Ná, Cam Ranh, Phan Rang, Ninh Tịnh, Ninh
Hòa, Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa. [17]
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là tôm nuôi đều phát triển tự phát. Dân
các tỉnh nuôi rải rác ở các vùng cát cao triều, xen lẫn trong các đồng tôm sú ở
ven biển. Hầu hết các hồ nuôi nhỏ lẻ ở nhiều khu vực khác nhau và không có
bể xử lý nước, nên nguồn nước thải xả ra kênh, ra biển gây ô nhiễm môi
trường. Theo Cục Nuôi trồng Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn thì việc quản lý chất lượng giống tại các trại đang bị buông lỏng, tôm
giống kém chất lượng, không qua kiểm soát vẫn được lưu hành trên thị
trường. Bên cạnh đó, một lượng rất lớn giống tôm chân trắng đang tràn qua
biên giới Quảng Ninh vào Việt Nam bằng nhiều con đường nhưng không
được cơ quan có trách nhiệm ngăn chặn. Thời gian gần đây tình hình dịch
bệnh đã xảy ra trên các vùng nuôi tôm chân trắng ở các tỉnh miền Trung và
đồng bằng sông Cửu Long
2.4.3 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế
2.4.3.1 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế

toàn quốc áp dụng thí điểm mô hình Quản lý chất lượng toàn diện (TQM). Tất
cả diện tích ao hồ đều được nuôi tôm chân trắng theo phương thức nuôi công
nghiệp, mật độ nuôi có thể lên tới 180con/m
2
, sử dụng thức ăn công nghiệp
100%. Tuy nhiên trong những vụ nuôi gần đây sản lượng nuôi có phần giảm
do thời tiết không ổn định, môi trường ngày càng xấu đi, dịch bệnh xuất hiện
trên một số ao nuôi. Hiện nay công ty đã xây dựng quy trình kiểm soát quá
trình nuôi tôm mới được quản lý chặt chẽ. Lựa chon con giống sạch bệnh, cải
thiện môi trường nước và lựa chọn loại thức ăn phù hợp là những việc cần
làm nhằm cải thiện năng suất, nâng cao lợi nhuận cho công ty. Trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Phong Điền nói riêng người dân
đang sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi tôm chân trắng, chủ yếu là
thức ăn công nghiệp của các công ty trong và ngoài nước. Hiện nay công ty
Trường Sơn đang sử dụng hai loại thức ăn chính là Hipo của công ty CP và
thức ăn Nuri của công ty Uni - president. Trong khi đó một số hộ dân tại địa
phương lại sử dụng thức ăn Winner của công ty Grobest. Cho đến nay, hiệu
quả sử dụng các loại thức ăn này vẫn chưa được kiểm chứng rõ ràng. Việc
nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp là rất cần thiết cho công ty cũng
như người nuôi tôm trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
15
16
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 3 loại thức ăn khác nhau:
1. Thức ăn Hipo của công ty CP Việt Nam
2. Thưc ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President
3. Thức ăn Winner của công ty TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam
Khách thể nghiên cứu: tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei)

- Tổng chi: con giống, thức ăn, hóa chất…
- Lợi nhuận
- Hiệu quả đầu tư
- So sánh hiệu quả kinh tế giữa 3 công thức thí nghiệm
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên trên 9 ao, chia 3 nghiệm thức và lặp
lại 3 lần
Nghiệm thức 1 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Hipo của công ty CP, các
ao A1, A2,A3
Nghiệm thức 2 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Nuri của công ty TNHH
Uni – President các ao A4, A5, A6
Nghiệm thức 3 (đối chứng): sử dụng thức ăn Winner, của công ty
TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam , các ao A7, A8, A9
Sơ đồ thí nghiệm :

A3 A8 A4
A6 A2 A9
A7 A5 A1
- Diện tích mỗi ao là 5000 m
2
, mật độ 100 con/m
2
- Nguồn giống CP, khối lượng khoảng 0,01gr/con, chiều dài khoảng 1cm
 Thức ăn CP sử dụng các loại:
18
• HI-PO 7701: dùng cho tôm từ 0,01 – 1gr/con
• HI-PO 7702: dùng cho tôm từ 1- 5gr/con
• HI-PO 7703: dùng cho tôm từ 5 - 7gr/con
• HI-PO 7703P: dùng cho tôm từ 7 - 10gr/con

Bao gói ( kg ) 10 25 25 25 25
 Thức ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President, hướng dẫn
sử dụng và thành phần dinh dưỡng như sau:
- Hướng dẫn sử dụng:
N310: dùng cho tôm 1 - 4 ngày tuổi, P10 - P15
N311: dùng cho tôm 5 - 14 ngày tuổi, P15 - P25
N312, N312A: dùng cho tôm 15 - 20 ngày tuổi, P25 - 1g
N313: dùng cho tôm 21 - 40 ngày tuổi, khối lượng 1 - 3g
N314: dùng cho tôm 41 - 60 ngày tuổi, khối lượng 3 - 7g
N315: dùng cho tôm 61 - 75 ngày tuổi, khối lượng 7 - 15g
N316: dùng cho tôm trên 75 ngày tuổi, khối lượng trên 15g
Bảng 2:Thành phần dinh dưỡng thức ăn Nuri
19
Mã số
thức ăn
N310 N311 N312 N312A N313 N314 N315 N316
Độ ẩm ,
≤(%)
11 11 11 11 11 11 11 11
Protein thô
≥(%),
42 40 40 40 40 37 37 36
Béo thô,
≥(%)
4 4 4 4 4 5 5 5
Xơ thô,
≤(%)
3 3 3 3 3 4 4 4
Tro,
≤(%)

thô

(%)

thô
≤(%)
Tro
thô
≤(%)
Độ
ẩm
≤(%)
Ca
≤(%)
P ≥
(%)
Ca/P
Bio
-
Pro
Organic
Se
No.1 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.2 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.2L 38 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.3 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.4 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.5 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
No.6 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + +
- Định kỳ xác định số lượng tôm và khối lượng tôm trong ao.

đó xác định khối lượng trung bình của tôm, chài 3 điểm bất kỳ trong ao rồi
lấy kết quả trung bình
- Khối lượng được cân bằng cân bàn (g)
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày)
12
12
w
TT
WW
G


=
-
21
,WW
là khối lượng trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai
- T
1
, T
2
là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
- G
w
là tốc độ tăng trưởng về khối lượng
3.5.3.2. Theo dõi chiều dài
- Dùng thước có chia vạch (mm) đo chiều dài của 30 con tôm sau đó lấy
kết quả trung bình
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài (cm/con/ngày).
12

thời gian nuôi khác nhau từ đó so sánh FCR giữa 3 công thức thí nghiệm theo
từng tháng và cả vụ nuôi
3.5.4.1. Khối lượng tôm
Công thức tính khối lượng tôm trong ao như sau:
Khối lượng đàn tôm (g) = Tỷ lệ sống x Số lượng tôm giống thả ban đầu
x Khối lượng trung bình (g/con)
3.5.1.2 Lượng thức ăn sử dụng:
Lượng thức ăn sử dụng(kg/ngày) =
% cho ăn x khối lượng đàn tôm (g)
1000
3.5 1.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn
- Công thức tính hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) như sau:
FCR tháng 1 =
Lượng thức ăn sử dụng tháng 1
Tổng khối lượng tôm sau tháng đầu tiên
FCR tháng 2 =
Lượng thức ăn sử dụng tháng 2
Tổng khối lượng tăng lên từ tháng 1 đến hết tháng 2
FCR tháng 3 =
Tổng lượng thức ăn sử dụng tháng 3
Tổng khối lượng tôm tăng lên từ tháng 2 đến hết tháng 3
23
FCR cả vụ =
Tổng tượng thức ăn sử dụng cả vụ nuôi
Tổng khối lượng tôm khi thu hoạch
3.5.5. Hiệu quả kinh tế
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi
Tổng thu = Tổng khối lượng tôm x đơn giá tại thời điểm thu hoạch
Tổng chi = Tiền con giống + thức ăn + thuốc, hóa chất + nhân công +
khấu hao tài sản + chi phí khác

24
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường
Kiểm soát các yếu tố môi trường là một trong những việc quan trọng
không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm. Điều kiện cần thiết cho một ao nuôi
có thể đạt năng suất cao đó là môi trường nước phải phù hợp với sự phát triển
của tôm nuôi. Sự thay đổi đột ngột của một yếu tố môi trường có thể làm thay
đổi các yếu tố khác. Môi trường xấu tôm sinh trưởng chậm và nếu vượt quá
sức chịu đựng thì sẽ gây sốc, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm
năng suất tôm nuôi. Trong thời gian thí nghiệm, chúng tôi cố gắng điều chỉnh
môi trường ao nuôi ở mức phù hợp nhất. Các ao trong các nghiệm thức được
chuẩn bị giống nhau về mọi khía cạnh như diện tích, độ sâu, chất đất, nguồn
nước…cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, chế độ chăm sóc quản
lý như nhau đối với tất cả các ao nuôi. Điều này rất quan trọng và cần thiết để
điều chỉnh môi trường ao nuôi ở các nghiệm thức đến mức đồng đều nhất có
thể nhằm đảm bảo mức độ chính xác của thí nghiệm khi so sánh các loại thức
ăn với nhau. Lịch trình theo dõi, kiểm soát môi trường phụ thuộc vào từng
yếu tố nhất định. Các yếu tố quan trọng và có mức độ biến động lớn như nhiệt
độ, oxy, pH được đo 2 lần hằng ngày trong suốt quá trình nuôi tôm. Độ mặn,
độ kiềm và độ trong được đo 3 ngày một lần. Kết quả theo dõi môi trường
được tổng hợp theo từng yếu tố và có những biến động khác nhau
4.1.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố rất quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến đời sống của động vật thủy sản nói chung và của tôm nói riêng. Sự
biến động nhiệt độ trong các ao nuôi được trình bày ở bảng 4
25

Trích đoạn Tăng trưởng về khối lượng 1 Tăng trưởng về khối lượng Tốc độ tăng trưởng về khối lượng tôm Tốc độ tăng trưởng về chiều dài 1 Tăng trưởng về chiều dà Tốc độ tăng trưởng về chiều dà
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status