tiểu luận - nghiên cứu đặc điểm dịch tễ - Pdf 10

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Tiểu luận
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
1
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Tiểu luận
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
MỤC LỤC
2
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về thực phẩm của con người ngày
càng nâng cao, vì vậy trong những năm gần đây ngành chăn nuôi đã có những
bước tiến nhất định đặc biệt là chăn nuôi gia cầm. Chăn nuôi gia cầm có một
vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bởi nó không chỉ đáp ứng nhu
cầu thực phẩm (thịt, trứng) cho người tiêu dùng mà còn cung cấp nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp chế biến, cung cấp phân bón cho cây trồng…Tuy
nhiên, chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng thường bị ảnh
hưởng của dịch bệnh, trong đó có bệnh ký sinh trùng.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi có nhiều điều kiện để phát triển chăn
nuôi gà, đặc biệt là gà thả vườn. Sán dây gà là bệnh ký sinh trùng khá phổ
biến, gà thường mắc bệnh với tỷ lệ và cường độ cao, mắc quanh năm không
kể mùa vụ và thời tiết nào. Tuy không gây ra thể cấp tính làm chết gà hàng
loạt nhưng sán dây ký sinh làm cho gà gầy yếu, giảm tăng trọng, giảm sản
lượng gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi.
Do sán ký sinh trong ống tiêu hoá chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho
gà gầy yếu, thiếu máu nên khi gà mắc bệnh thường thể hiện rõ nhất là niêm
mạc vàng, nhợt nhạt, mào và dái tai xanh tái. Gà khó thở thường vươn cổ ra
để thở. Sán tác động cơ học trong ruột non của gà, gây tổn thương niêm mạc

giảm sức sản xuất. Nếu số lượng sán ký sinh nhiều gây tắc ruột, thủng ruột,
gây viêm xoang bụng, gây chết.
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Thành phần và đặc điểm sinh học của các loài sán ký sinh ở gà
Bệnh xảy ra do các loài sán thuộc lớp Cestoda bộ Cyclophyllidea ký
sinh ở ruột non và ruột già.
2.1.1.1. Thành phần của các loài sán dây ký sinh ở gà
* Vị trí sán dây trong hệ thống phân loại động vật
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các loại sán dây ký sinh ở gà. Năm
1940 Krjabin đã giới thiệu hệ thống phân loại của bộ Cyclophyllidea ông đã
chia bộ này thành một số phân bộ: Anoplocephalata, Davaineata,
Hymenolepidata, Taeniata
Các nhà khoa học Việt Nam đã phân loại sán dây ký sinh theo hệ thống
phân loại của Schulz và Gvozdev (1970) ( Đặng Ngọc Thanh và CS, 2003)
[17]. Theo Phan Thế Việt và CS (1977) [27]; Nguyễn Thị Kỳ (1994) [4];
Nguyễn Thị Lê (1996) [11], sán dây có vị trí trong hệ thống phân loại động
vật như sau:
6
Ngành Plathelminthe Schneider, 1873
Lớp sán dây Cestoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Euestoda Southwell, 1930
Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900
Phân bộ Davaineata Skjabin, 1940
Họ Davaineidae Fuhrmann, 1907
Phân họ Davaineinae Braun, 1900
Giống Davainea Branchard, 1891
Loài Davainea proglottina (Davane,1860)
Giống Cotugnia Diamare, 1893
Loài Cotugnia digonopora (Pasquale, 1890)
Giống Raillietina Fuhrmann, 1920

khu vực xung quanh thành phố Hà Nội nhiễm 3 loài sán dây: R. tetragona, R.
echinobothrida, R. cesticillus
Nguyễn Thị Lê (1996) [11] cho biết, gà ở nước ta nhiễm các loài sán
dây là: Cotugnia digonopora, Davainea proglottina, R. tetragona, R.
echinobothrida, R. penetrans, R. cesticillus, R. macassariensis, R. tinguiana,
R. peradenica nova, R. georgiensis, R. peradenica, R. volzi
Theo Phan Thế Việt và CS (1977) [9], thành phần sán dây ký sinh ở gà gồm:
Giống Loài
8
Davainea Branchard, 1891 Davainea proglottina (Davane,1860)
Cotugnia Diamare, 1893 Cotugnia digonopora (Pasquale, 1890)
Raillietina Fuhrmann, 1920
R. tetragona(Molin, 1858)
R. echinobothrida (Megnin, 1880)
R. penetrans (Barzynska, 1880)
R. cesticillus (Molin, 1858)
Echinolepis Spassky et Spaskaja, 1954 Echinolepis cariona (Magalhaes, 1898)
Microsomacanthus Lopez -Neyra, 1942 Microsomacanthus (Joyeux et Baer, 1935)
Staphylepis Spassky et Oschmarin,1954 Staphylepis cantaniana (Polonio, 1960)
Oraentolepis Spassky et Jurpalova, 1964 Orientolepis exigura (Yoshida, 1910)
Amoebotaenia Cohn, 1900 Amoebotania cuneata (Linstow, 1872)
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo các loài sán dây gây bệnh
* Đặc điểm chung của các loài sán dây
Theo Phan Thế Việt và CS (1977) [27], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [4],
Nguyễn Thị Lê và CS (1996) [11], sán dây có cơ thể dạng dải băng, dẹp theo
hướng lưng bụng. Cơ thể gồm có đầu (Scolex), cổ (Neck), chuỗi đốt (Strobila)
bao gồm nhiều đốt riêng biệt. Chỉ có một số ít đại diện của lớp là cơ thể không
phân đốt. Cơ thể sán được bao bọc bởi lớp cutin, dưới lớp cơ ngoài gồm những
tế bào tầng dưới biểu bì và những lớp cơ vòng, cơ dọc, phần trong cơ thể chứa
đầy nhu mô. Ở giai đoạn trưởng thành sán sống chủ yếu trong ruột của tất cả các

đốt sán và chúng còn thay đổi ngay ở cả các cá thể trong một loài. Những đốt
10
sán thường có dạng bốn góc. Ở một số loài chiều rộng của đốt sán lớn hơn chiều
dài, một số loài khác thì ngược lại. Sự tương quan giữa chiều rộng và chiều dài
của đốt thường phụ thuộc vào sự kéo dài về phía này hay phía khác của đốt.
Chiều dài của sán dây dao động từ 0,5mm - 25m. Chiều dài của sán dây
ký sinh ở gia cầm từ 1,5 - 500mm. Nội quan gồm có hệ thần kinh, hệ bài tiết
và hệ sinh dục, không có hệ tiêu hoá.
Hệ thần kinh: Ở sán dây hệ thần kinh kém phát triển gồm có hạch thần
kinh trung ương nằm ở trên đầu, từ đó các dây chạy dọc cơ thể. Có hai dây phát
triển hơn nằm bên ngoài ống bài tiết và nối với nhau bởi các cầu nối ngang.
Hệ bài tiết: Sán dây bài tiết theo kiểu nguyên đơn thận. Gồm có bốn
ống chính chạy dọc cơ thể trong đó hai ống mặt lưng và hai ống mặt bụng,
chúng nối với nhau ở phần đầu. Ngoài ra, ở mỗi đốt các ống trái và phải nối
với nhau bằng các cầu nối ngang.
Trong các đốt chứa cơ quan sinh dục phát triển ở các giai đoạn khác
nhau. Hầu hết các loài sán dây là lưỡng tính. Trong mỗi đốt trưởng thành
thường có một hoặc hai hệ sinh dục (mỗi hệ sinh dục gồm có một cơ quan
sinh dục đực và một cơ quan sinh dục cái). Sự phát triển của hệ sinh dục theo
một thứ tự nhất định. Các đốt non cơ quan sinh dục chưa phát triển, sau đó
hình thành cơ quan sinh dục đực rồi đến cơ quan sinh dục cái. Sau khi thụ
tinh, hệ sinh dục đực teo dần, còn lại cơ quan sinh dục cái. Ở các đốt già trứng
chứa đầy trong tử cung.
Hệ sinh dục đực: Gồm tinh hoàn, các ống dẫn và các tuyến sinh dục. Số
lượng tinh hoàn trong mỗi đốt có từ một đến hàng trăm và đây cũng là dấu
hiệu để phân loại mỗi loài. Từ tinh hoàn có nhiều ống thoát tinh nhỏ đi ra và
hợp lại với nhau thành ống dẫn tinh, ống này đổ vào các cơ quan giao phối là
lông gai. Lông gai nằm trong nang lông gai. Phần cuối ống dẫn tinh có thể
11
phình ra gọi là túi tinh. Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh

của sán dây có thể dạng túi, dạng cành và cả dạng nang riêng biệt chứa từ một
đến vài trứng (Daivaneidea). Trứng của sán dây có cấu tạo đa dạng, có một
hoặc hai vỏ, ấu trùng trong trứng của phân lớp Eucestoda có 6 móc. Ở những
sán dây này trứng được thải ra ngoài tuỳ theo mức độ hình thành của trứng.
Tử cung chứa đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến thành một cái
túi chứa trứng. Trứng được chui ra ngoài bằng cách nứt thành cơ thể của đốt.
Quá trình này thường thực hiện ở môi trường ngoài nơi mà các đốt sán dây
già được thải ra cùng với phân vật chủ.
Ấu trùng: Bộ Cyclophyllidea có ấu trùng là Cyssticercoid. Đây là bào
nang có hai vỏ bao gồm cơ quan bám và tuyến đuôi (Ceromera) với ba đôi
móc bào thai. Sự hình thành Cysticercoid do sự kéo dài của Oncoxphera, xuất
hiện xoang cơ thể và bốn giác bám, vòi thô sơ. Sau đó phần sau hẹp lại, dài
ra, nối với đường tạo thành xoang và ở đây hình thành nang. Phần trước của
cơ thể có mầm mống của giác bám và vòi, kéo dài tới phần sau của nang.
Bằng cách đó hình thành xoang hai vỏ, vỏ ngoài là phần sau của cơ thể, còn
vỏ trong là phần trước của cơ thể (Đặng Ngọc Thanh và CS, 2003) [17].
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và CS (1999) [6], ấu trùng của các loài sán
dây gây bệnh ở vật nuôi bao gồm:
- Cysticercus: Là một bọc hình tròn hoặc hình bầu dục, có màng mỏng
bọc ngoài là tổ chức liên kết, bên trong có nước trong suốt và một đầu sán
màu trắng dính với màng trong (đầu sán có 4 giác bám, một số có móc nhỏ).
Thí dụ: Cysticercus cellulosae, Cystycercus bovis, Cyscercus tenuicollis.
13
- Coenrus: Hình tròn hoặc bầu dục, trong có nước và rất nhiều đầu sán
bám ở màng sinh sản (có tới 300 đầu sán). Thí dụ: Coenrus cebralis ký sinh ở
não cừu.
- Echinococcus: Có thể to bằng hạt đậu đến quả bưởi, trong bọc chứa
nhiều nước trong suốt, bên ngoài là lớp kitin dầy, trong cùng là lớp mô sinh
sản. Từ lớp này sinh ra nhiều bọc con, các bọc con này sinh ra các bọc bên
trong chứa nhiều đầu sán. Đầu sán phần lớn rời khỏi mô và rơi vào trong

bên đốt sán. Có 18 - 23 tinh hoàn ở giữa đốt sán.
Nguyễn Thị Kim Lan và CS (1999) [6] cho biết: Loài Raillietina
tetragona túi dương vật hình lê. Buồng trứng ở phần sau đốt sán.Tử cung của
các đốt sán trưởng thành nằm trong lớp vỏ có nhiều túi trứng, mỗi túi có 6 - 12
trứng. Đường kính trứng 0,025 - 0,05 mm; ấu trùng có đường kính 10 -14 µ.
- Loài Raillietina cesticillus: Ký sinh ở ruột non các loài vật chủ là gà
nhà, gà rừng gà tây, chim bồ câu và các loài chim khác thuộc bộ gà (Gallifomes).
Hình thái: Dài 90 - 100 mm, rộng 1,5 - 3 mm. Đỉnh đầu có mõm có
hình thái rất đặc biệt như một chiếc gối hình bán cầu, có 400 - 500 móc xếp
thành 2 hàng. Trên giác bám không có móc. Có 15 -30 tinh hoàn. Lỗ sinh
dục ở một bên đốt. Tử cung ở tất cả các đốt trưởng thành cũng nằm ở trong
lớp vỏ, tử cung có nhiều túi trứng, mỗi túi chỉ có một trứng. Đường kính
trứng 0,05 -0,09 mm.
Nguyễn Thị Kỳ (1994) [4], Phạm Sỹ Lăng và CS (2002) [8] cũng cho
biết loài này có vòi hình nấm đặc trưng, rộng 0,252 - 0,321 mm, lỗ sinh dục
15
không nằm về một phía, có ở tất cả các đốt và nằm so le nhau. Tử cung ở tất
cả các đốt trưởng thành nằm trong lớp vỏ.
Hình 2.1. Loài Raillietina cesticillus
- Loài R. vozli: Ký sinh ở ruột của vật chủ là gà rừng, gà nhà.
Hình thái: Sán dài 40 - 60 mm, rộng 2mm. Đầu dài 0,3 mm; rộng 0,045
mm. Giác bám có đường kính 0,18 mm, có nhiều gai, phần trên giác có 12-14
hàng móc, còn phần ở dưới chỉ có 4 - 6 hàng. Gai phần ngoài giác bám lớn
hơn phần trong (0,013 và 0,0018 mm), vòi nhỏ, chiều ngang 0,088 mm; có
hai vòng móc gồm 240 móc. Có 30 tinh hoàn phân bố rộng ở hai bên và phía
dưới tuyến sinh dục cái. Nang lông gai dài 0,2 mm. Noãn hoàng rộng 0,1 mm.
Tử cung chia thành các nang, mỗi nang chứa 8- 12 trứng.
- Loài Raillietina georgiensis: Ký sinh ở ruột vật chủ là gà.
Hình thái: Sán dài 150 - 380 mm, rộng tối đa 3,5 mm. Có 220 - 268 móc,
vòi dài 0,017 - 0,023 mm xếp thành hai hàng. Giác bám dài 0,110 - 0,179 mm,

rộng 0,238 - 0,270 mm. Lỗ sinh dục ở một phía nhưng đôi khi xen kẽ không
đều, mở ra ở giữa bờ đốt. Tinh hoàn hình bầu dục có đường kính 0,059 - 0,-74
mm. Có 17- 21 tinh hoàn nằm ở xung quanh buồng trứng và noãn hoàng, 7-
17
10 tinh hoàn ở phía có lỗ và 10 m- 14 ở phía không lỗ. Nang lông gai rất rộng
có hình hạt đỗ dài 0,312 mm, rộng 0,105 mm, dài tới ống bài tiết. Lông gai
không có gai, ống dẫn tinh tạo thành nhiều nếp uốn khúc ở đáy nang lông gai.
Âm đạo gồm hai phần: Phần rộng ở phía có lỗ coi như túi chứa tinh, phần còn
lại có dạng ống hẹp. Buồng trứng chia thuỳ nằm ở giữa đốt, noãn hoàng
không lớn lắm và nằm dưới buồng trứng hơi lệch về phía có lỗ. Có 80 - 90
nang trứng hình tròn hay hình bầu dục, mỗi nang trứng chứa 5 - 10 trứng.
- Loài Raillietina macasarensis: Ký sinh ở vật chủ là gà nhà, gà rừng.
Hình thái: Sán dài 47 - 72 mm, đường kính đầu 0,21 - 0,25 mm. Giác
bám hình bầu dục, có gai, kích thước 0,096 - 0,100 x 0,075 - 0,085 mm, gai
xếp thành các hàng xoáy chôn ốc đều nhau, mỗi hàng có 16 gai. Các gai ở gần
hàng ngoài dài 0,005 mm và giảm dần ở các hàng trong. Vòi hình hạt đậu,
đường kính 0,075 - 0,090 mm. Có hai hàng móc, móc hàng trên dài 0,084
mm, hàng dưới dài 0,072 mm. Chuỗi đốt có chiều rộng lớn hơn chiều dài. Có
20 - 28 tinh hoàn hình tròn hoặc hình bầu dục, kích thước 0,045 - 0,060 x
0,042 - 0,045 mm, tinh hoàn thường phân bố ở hai bên tuyến sinh dục cái, ống
dẫn tinh uốn khúc. Nang lông gai hình quả lê, kích thước 0,075 - 0,200 x 0,15
- 0,50 mm. Noãn hoàng nằm ở giữa và dưới buồng trứng, có kích thước 0,033
- 0,100 x 0,075 - 0,150 mm.
- Loài Raillietina tinguiana: Ký sinh ở ruột của vật chủ là gà nhà, gà rừng.
Hình thái: Sán dài 80 -95 mm, rộng nhất 3mm. Đường kính vòi 0,106
mm, vòi có gần 300 móc xếp thành hai hàng, móc dài 0,008 - 0,010 mm. Giác
bám tròn có kích thước 0.103 - 0,108 x 0,105 - 0,108 mm, có nhiều gai xếp
thành 15 hàng. Trên bề mặt của đầu có rất nhiều gai nhỏ. Lỗ sinh dục ở một
phía, có túi tinh trong và 30 - 35 tinh hoàn phân bố xung quanh tuyến sinh
dục cái. Ống dẫn tinh uốn khúc nhiều. Buồng trứng có hai thuỳ, mỗi thuỳ

sán dây hoàn thành chu kỳ sinh học.
Các loài sán dây khác nhau có vật chủ trung gian khác nhau:
Loài R. echinobothrida: Chu kỳ sinh học có sự tham gia của vật chủ
trung gian là loài kiến Pheidole pallidula, ruồi nhà Musca domestica
(Akhumiam. X, 1952; Phan Thế Việt và CS, 1977). Các đốt sán già chứa nhiều
trứng rụng theo phân ra ngoài. Đốt vỡ ra giải phóng nhiều trứng sán,kiến là vật
chủ trung gian nuốt trứng sán vào cơ thể, trứng nở ra ấu trùng 6 móc, tiếp tục
phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm. Gà ăn kiến có ấu trùng, ấu trùng vào ruột
non ký sinh và phát triển thành sán trưởng thành, hoàn thành chu kỳ sinh học.
Loài R. cesticillus: Vật chủ trung gian là 19 loài bọ hung (Coleoptere)
thuộc các giống Geotrupes, Carabus, Broscus, Panagatus, Ophnus, Tenebrria,
Aphodius, Plastysm và Oryctes. Các loài bọ hung này ăn phải trứng sán dây
trong tự nhiên, trứng sán qua các giai đoạn phát triển trở thành ấu trùng có sức
gây bệnh.
Loài R. tetragona cần vật chủ trung gian là các loài kiến: Pheidole
pallidula, Tetrmorium (Orlov. M, 1962; Kaufmann. J, 1996; Phan Thế Việt và
CS, 1977). Các giai đoạn phát triển ấu trùng thực hiện trong vật chủ trung
gian để trở thành ấu trùng cảm nhiễm Cysticercoid.
Loài Davainea proglottina: Vật chủ trung gian là nhuyễn thể trên cạn
(ốc Limax). Vòng đời bắt đầu từ khi đốt sán chửa rụng theo phân ra ngoài, vỡ
ra giải phóng trứng. Ký chủ trung gian nuốt phải trứng sán, vào đến ruột, ấu
trùng 6 móc nở ra và phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh.
Thời gian phát triển ở vật chủ trung gian là 14 - 16 ngày (mùa hè) và 66
ngày (mùa đông) đối với vật chủ trung gian là côn trùng cánh cứng, 20 - 22
ngày đối với vật chủ trung gian là nhuyễn thể trên cạn.
20
Thời gian từ lúc gà nuốt phải ký chủ trung gian mang ấu trùng gây
bệnh, đến khi phát triển thành sán dây trưởng thành dài hay ngắn tuỳ loài sán
dây: loài R. tetragona và R. echinobothrida là 19 - 23 ngày; loài R. cesticillus
là 11 - 20 ngày; loài D. proglottina là 12 - 16 ngày (Nguyễn Thị Kim Lan và

ký chủ trung gian của sán dây gà. Sự phát triển của sán dây phụ thuộc phần
lớn vào vật chủ trung gian. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm ở nước ta, các
loài kiến, bọ hung và ruồi nhà có thể hoạt động quanh năm. Do vậy, sự lây
truyền bệnh sán dây cũng diễn ra quanh năm, nhưng tập trung vào các tháng
có thời tiết nóng và ẩm ướt, từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu. Thời gian
này, điều kiện sinh thái phù hợp cho các loài kiến, bọ hung và ruồi nhà phát
triển, truyền bá nhiều loại mần bệnh trong đó có ấu trùng sán dây (Phạm Sỹ
Lăng và CS, 2002) [8].
Theo Dương Công Thuận (2003) [24]: Điều kiện khí hậu ảnh hưởng
đến sự phát triển bệnh sán dây ở gà. Mùa đông, khí hậu khô và lạnh, tỷ lệ
22
cường độ nhiễm ký sinh trùng thường thấp hơn so với các mùa khác. Nước ta
là nước nhiệt đới, có một mùa nóng ẩm kéo dài và một mùa đông không lạnh,
khô lắm, thích hợp cho sự phát triển và lây lan của bệnh ký sinh trùng nói
chung và bệnh sán dây gà nói riêng.
Orlov. F.M và CS (1975) [28] cho biết gà bị nhiễm sán dây nặng
thường thấy vào mùa mưa nhiều, ẩm độ cao, trời nóng chủ yếu từ tháng 4 đến
tháng 11, đây là thời điểm thích hợp cho ký chủ trung gian phát triển. Từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau nhiệt độ xuống thấp hơn, trời rét, khô hạn nên
tỷ lệ nhiễm thấp hơn.
Mpoame và CS (1989) [35] kiểm tra trên 315 gà mua tại chợ Dschang
(phía tây Camaroon), kết quả tìm thấy 10 loài giun sán. Trong đó gà nhiễm
R.tetragona với tỷ lệ 14,5%; không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa gà
trống và gà mái. Gà thường nhiễm nặng vào mùa mưa (tháng 4 đến tháng 10)
Permin A. và CS (1997) [40] đã nghiên cứu tình hình nhiễm giun sán
theo mùa và khí hậu tại 6 làng trong vùng Morogoro (tanzania) trên 600 gà
được lựa chọn ngẫu nhiên, kết quả là: Tất cả các gà đều nhiễm giun sán với
mức độ trung bình là 4,8 loài giun sán/gà ở mùa mưa và 5,1 loài giun sán/gà ở
mùa khô. Tỷ lệ nhiễm các loài ở mùa mưa là: R. echinobothrida (41,3%), R.
tetragona (25,3%), R. cesticillus (8,7%), ở mùa khô tương ứng là 46,3% và

Phan Lục và CS (1996) [12], Nguyễn Thị Kim Lan và CS (1999) [6]
cho biết, gà ở các lứa tuổi đều nhiễm sán dây: Gà dưới 3 tháng tuổi nhiễm
40,07%; 3 - 6 tháng tuổi nhiễm 57,1%; trên 6 tháng tuổi là 69,9%. Như vậy tỷ
lệ nhiễm tăng theo lứa tuổi vì tuổi càng nhiều thì càng có cơ hội tiếp xúc với
vật chủ trung gian.
24
Đỗ Hồng Cường và CS (1999) [2] cho biết, gà Ri nhỏ hơn 2 tháng tuổi
tỷ lệ nhiễm sán dây là 36,11%; gà từ 2 - 5 tháng là 70,79%; gà lớn hơn 6
tháng tuổi là 71,08%. Qua kết quả mổ khám, tác giả có nhật xét, mức độ cảm
nhiễm sán dây xảy ra ngay từ những tháng đầu, gà càng lớn mức độ cảm
nhiễm càng cao.
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây còn phụ thuộc vào vùng miền. Ở vùng
núi có điều kiện cho các loài ký chủ trung gian phát triển nên có tỷ lệ nhiễm
cao hơn. Theo kết quả điều tra ở các thập kỷ 70 và 80 cho thấy, gà ở vùng núi
nhiễm sán dây cao hơn vùng trung du và đồng bằng: Nghĩa Lộ 80,7%; Quảng
Ninh 85,0%; Hà Bắc 73,8%; Nam Hà 69.4% (Trịnh Văn Thịnh và CS, 1982)
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và CS (1999) [6], đốt sán chửa theo phân ra
ngoài thường vào một thời gian nhất định trong ngày. Theo Wetzel (1954) sán
dây R. cesticillus thường thải đốt vào khoảng 11 - 15 giờ, loài Davainea
proglottina thải đốt vào khoảng 12 - 18 giờ. Việc thải đốt sán cũng phụ thuộc
vào phương thức cho ăn và giờ cho ăn. Nếu cho gà ăn hai lần vào lúc 10 giờ
và 16 giờ thì phân có nhiều đốt sán vào lúc 16 - 18 giờ. Ngược lại, nếu cho ăn
buổi chiều vào lúc 18 giờ và đêm thì 6 - 10 giờ sáng hôm sau sẽ ra đốt sán.
Dương Công Thuận (2003) [24] cũng cho thấy, đối với mỗi loài sán,
các đốt sán được thải ra theo thời gian nhất định trong ngày, thường vào buổi
chiều hay tối. Việc đốt sán ra còn phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi và
giờ cho ăn. Nếu cho ăn trưa và chiều thì đốt sán ra vào chiều tối. Nếu cho ăn
chiều và tối thì đốt sán ra vào sáng hôm sau.
Sức đề kháng của mầm bệnh ở ngoài tự nhiên cũng góp phần vào sự
phát triển của bệnh. Đốt sán già theo phân ra ngoài bị phân huỷ, giải phóng ra


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status