Tài liệu Báo cáo " VÌ XÃ HỘI HỌC ĐẠI CHÚNG" - Pdf 10

VÌ XÃ HỘI HỌC ĐẠI CHÚNG
For Public Sociology, Michael Burawoy, American Sociological Review, Albany: tháng
3 năm 2005, tập 70, xuất bản lần 1, trang 4- 25.

Đây là cách một người phác họa thần lịch sử. Khuôn mặt của thiên thần hướng về phía
quá khứ. Nơi chúng ta nhận thức về một chuỗi những sự kiện, thiên thần chỉ nhìn thấy
một thảm họa đang chất mảnh vụn này lên mảnh vụn khác, và chất đống dưới chân ngài.
Thiên thần muốn ở lại, đánh thức người chết, và gắn liền những mảnh vỡ. Nhưng một
cơn bão đang thổi tới từ Thiên Đường; nó đã nắm lấy cánh của anh ta với sự bạo tàn
của mình và khiến thiên thần không còn khép lại đôi cánh của mình được nữa. Cơn bão
này không thể đẩy thiên thần về tương lai nằm phía sau lưng anh ta, trong khi đống đổ
nát trước mặt anh đã cao ngút trời. Cơn bão là cái mà chúng ta gọi là tiến bộ- Walter
Benjamin

Walter Benjamin viết luận văn tiến sĩ thứ 9 của ông về triết học lịch sử khi quân đội Nazi
tiến gần tới thành phố Paris yêu dấu của ông, thánh địa linh thiêng của những triển vọng
của nền văn minh. Ông phác họa triển vọng này thông qua hình ảnh bi kịch của thần lịch
sử, chiến đấu một cách vô vọng chống lại cuộc hành quân dài của quá trình văn minh hóa
thông qua sự phá hủy. Với Benjamin, năm 1940, tương lai trở nên ảm đạm nhất khi chủ
nghĩa tư bản biến thành chủ nghĩa Phát xít cũng như chủ nghĩa xã hội biến thành chủ
nghĩa Stalin, và trải dài khắp thế giới. Ngày nay, vào bình mình của thế kỷ 21, mặc dù
chủ nghĩa cộng sản đã tan rã và chủ nghĩa Phát-xít đã trở thành quá khứ hãi hùng, những
mảnh vụn của chúng vẫn tiếp tục phát triển cao ngút trời. Chủ nghĩa tư bản không bị ràng
buộc thúc đẩy sự xuất hiện của những bạo chúa trên thị trường và những bất công (không
được nói ra) trên phạm vi thế giới; trong khi sự trỗi dậy của nền dân chủ lại thường trở
thành con đường để tìm kiếm lợi ích về quyền lực, sự tước quyền công dân, sự xuyên tạc
và thậm chí là bạo lực. Thêm một lần nữa, thần lịch sử bị quét đi bởi cơn bão, cơn bão
đáng sợ được thổi từ Thiên Đường.
Khi mới hình thành, xã hội học mong muốn đóng vai trò như một thiên thần lịch sử, tìm
kiếm trật tự trong những mảnh vỡ của hiện đại, tìm cách cứu vớt triển vọng của tiến bộ.
Do đó, từ chỗ bị ghét bỏ, chủ nghĩa xã hội đã được Karl Marx đã phục hồi; từ chỗ vô đạo

những người đi sau đảm bảo rằng tất cả đều theo một lộ trình. Tuy vậy, bất kể những áp
lực trở nên quen thuộc của nghề nghiệp, nguồn gốc tinh thần của động lực ít khi bị đánh
bại, tinh thần xã hội học không thể dễ dàng bị đánh bại.
Mặc dù những bó buộc, ngành kiến thức này – theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng của từ
này – đã sản sinh ra lợi ích. Chúng ta đã dành 1 thế kỷ để xây dựng kiến thức chuyên
môn, chuyển những hiểu biết thông thường thành khoa học, do đó giờ đây, chúng ta đang
rất sẵn sàng tham gia vào việc lý giải ngược lại những tri thức này một cách hệ thống,
chuyển tri thức từ khoa học về cuộc sống, tác biệt những vấn đề công ra khỏi những
chuyện riêng tư, và do đó tái tạo lại những vẻ đẹp tư tưởng của xã hội học. Đó là sự hứa
hẹn và thách thức của xã hội học đại chúng, một sự bổ trợ chứ không phải là đàm phán
của xã hội học chuyên nghiệp.
Để có thể hiểu về những thành quả của xã hội học đại chúng, những khả năng và hiểm
họa của nó, những tiềm năng và xung đột, thành công và thất bại, trong suốt 18 tháng
qua, tôi đã tranh luận về xã hội học đại chúng trong hơn 40 cuộc thảo luận, từ những
trường đại học công tới các tổ chức quốc gi tới các phòng khoa hàng đầu trên khắp nước
Mỹ- cũng như tại Anh, Canada, Nauy, Đài Loan, Lebanon, và Nam Phi. Những cuộc
thảo luận đã dẫn tới nhiều hội nghị chuyên đề về xã hội học đại chúng, bao gồm những
hội nghị về Những vấn đề Xã hội (tháng 2 năm 2004), Những Lực lượng Xã hội (tháng 6
năm 2004), và Xã hội học Phê bình (Hè 2005). Footnote, những bức thư của Hiệp hội Xã
hội học Hoa Kỳ (ASA), đã giúp hình thành một nội dung đặc biệt về xã hội học đại
chúng, những kết quả có được được tổng hợp trong “An Invitation to Public Sociology”
(Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ 2004). Các phòng nghiên cứu đã đưa ra các phần thưởng và
blog về xã hội học đại chúng, ASA đã mở website riêng của họ về xã hội học đại chúng,
và một bộ tài liệu giới thiệu đã được đưa ra đề cập đến vấn đề xã hội học đại chúng. Các
nhà xã hội học đã xuất hiện thường xuyên hơn trong các trang ý kiến chuyên gia của tạp
chí quốc gia của chúng tôi. Cuộc gặp mặt hàng năm của ASA năm 2004 đã được dành
cho xã hội học đại chúng; cuộc họp đã có số lượng thành viên kỷ lục và nghiên cứu về
hàng loạt các khía cạnh khác nhau của vấn đề. Những khó khăn trong thời buổi hiện nay
đã khuấy động thần lịch sử từ giấc ngủ.
Tôi đưa ra 11 luận điểm. Chúng bắt đầu với những nguyên nhân của sức hấp dẫn của xã

như các quy trình chính trị, và sự ảnh hưởng ngày càng sâu sắc của xu hướng dân chủ.
Nghiên cứu xã hội học đã tách khỏi quá trình thích nghi với nghiên cứu về sự thống trị và
các phong trào lao động. Sự phân tầng dịch chuyển từ nghiên cứu về độ linh động của xã
hội theo trật tự uy tín nghề nghiệp sang việc kiểm tra những thay đổi cấu trúc xã hội và
bất bình đẳng kinh tế giữa các tầng lớp, chủng tộc và giới. Xã hội học phát triển đã bỏ
qua lý thuyết hiện đại hóa để hướng về lý thuyết chưa hoàn thiện, hệ thống phân tích của
thế giới, và tăng trưởng mạnh mẽ của quốc gia. Lý thuyết về chủng tộc đã chuyển từ
những lý thuyết gắn liền với kinh tế chính trị sang nghiên cứu về sự hình thành chủng
tộc. Lý thuyết xã hội đưa ra những kiến giưaỉ có tính nhân chủng hơn trong các tác phẩm
của Weber và Durkheim, và phù hợp với những tiêu chuẩn của Marx. Nếu thuyết nam nữ
bình quyền không phù hợp với các tiêu chuẩn (If feminism was not quite let into the
canon), rõ ràng nó có tác động đáng kể đối với hầu hết các lĩnh vực của xã hội học. Quốc
tế hóa đang tác động mạnh mẽ với đơn vị cơ bản của xã hội học- quốc gia – trong khi
thách thức việc phi địa phương hóa của môn học này. Tất nhiên, cũng có những phong
trào chống lại xu hướng này- ví dụ, uy thế của những nghiên cứu đồng hóa về vấn đề di
cư hay những người theo chủ nghĩa tân thể chế (neoinstitutionist) đã đưa ra tài liệu về
sự mở rộng trên phạm vi thế giới của các học viện Mỹ- nhưng trong hơn nửa thế kỷ qua,
phong trào có tầm ảnh hưởng rộng lớn này đã theo hướng nghiêm ngặt.
Nếu hàng loạt các thế hệ chính trị và thay đổi của xã hội học là một nửa của cái kéo, nửa
còn lại, chuyển động theo hướng ngược lại, là thế giới mà chúng ta nghiên cứu. Mặc dù
hàm ý của công bằng và tự do tập trung như vậy, các nhà xã hội học đã đưa ra tài liệu
về sự thống trị và bất công ngày càng sâu sắc đang diễn ra. Trong vòng 25 năm qua,
những thành quả về an ninh kinh tế và dân quyền đã bị đảo lộn do sự phát triển quả thị
trường (với những bất công trong khả năng tham gia) và vị thế cưỡng bức, vi phạm
quyền trong nước và nước ngoài. Hầu hết, thị trường và quốc gia kết hợp với nhau chống
lại quyền con người theo cách được biết đến như chủ nghĩa tự do mới. Chắc chắn, các
nhà xã hội học đã trở nên nhạy cảm ơn, tập trung hơn vào những khía cạnh tiêu cực,
nhưng bằng chứng họ đã tập hợp lại thực sự chỉ ra sự suy giảm trong rất nhiều khu vực.
Và tất nhiên, khi tôi viết báo cáo này, chúng ta được điều chỉnh bởi 1 cơ chế chống lại xã
hội học một cách sâu sắc trong những đặc thù của nó, thù địch với những ý tưởng về

hội Mỹ- bản chất của giá trị xã hội, khoảng cách giữa những hứa hẹn và thực tại, sự bất
ổn của nó, những xu hướng của nó. Cùng với xã hội học đại chúng truyền thống, chúng ta
có thể tìm ra những nhà xã hội học, những người viết các bài bình luận trong các tờ báo
quốc gia về những vấn đề liên quan tới tầm quan trọng của đại chúng. Ngược lại, những
phóng viên có thể thực hiện nghiên cứu trong lĩnh vực đại chúng, ví dụ, giống như cách
họ làm với những bài báo của Chris Uggen và Jeff Manza (2002) trong American
Sociological Review về tầm quan trọng về mặt chính trị của việc tước quyền tự do một
cách tàn bạo và nghiên cứu của Devah Pager (2002) về cách thức mà chủng tộc chứa
đầy những tác động của báo cáo tội phạm so với triển vọng việc làm của những người trẻ
tuổi. Với xã hội học đại chúng truyền thống, xã hội được đề cập thường tàng hình do nó
không thể được nhìn thấy, mỏng manh do nó không thể tạo ra được những tương tác nội
tại, tiêu cực do chúng không bao gồm một phong trào hoặc một tổ trức, và thường là xu
hướng chính. Nhà xã hội học đại chúng truyền thống đưa ra những thảo luận trong cộng
đồng, mặc dù anh ta có thể không trực tiếp tham gia vào.
Tuy nhiên, còn có một loại xã hội học đại chúng khác- xã hội học đại chúng hữu cơ trong
đó công việc của nhà xã hội học gắn liền với đối tượng có thể nhìn thấy, rõ ràng, tích cực
và thường ngược lại với cộng đồng. Phần lớn xã hội học đại chúng thuộc loại này- các
nhà xã hội học nghiên cứu các phong trào lao động, các tổ chức láng giềng, các cộng
đồng có tín ngưỡng, các nhóm quyền của người nhập cư, các tổ chức nhân quyền. Giữa
các nhà xã hội học đại chúng hữu cơ và đại chúng là một cuộc thảo luận, một quá trình
đào tạo lẫn nhau. Sự nhận thức về xã hội học đại chúng phải bao trùm những hoạt động
hữu cơ thường trong trạng thái vô hình, cá thể và thường được coi là tách biệt với đời
sống chuyên môn của chúng ta. Đề án về xã hội học đại chúng như vậy hướng tới việc
biến cái vô hình thành cái hữu hình, biến cái cá nhân thành cái tập thể, nhằm làm rõ
những mối liên hệ hữu quan như một phần của đời sống xã hội học của chúng ta.
Xã hội học đại chúng hữu cơ và truyền thống không đối lập mà bổ trợ cho nhau. Mỗi bên
thông tin cho bên còn lại. Cuộc thảo luận rộng nhất trong xã hội, ví dụ về những giá trị
gia đình, có thể thông báo và được thông báo bởi các tác phẩm của chúng ta với các
khách hàng thình vượng. Những cuộc thảo luận về việc NAFTA có thể tạo ra sự hợp tác
giữa các nhà xã hội học với một đơn vị thương mại tại địa phương; việc họ làm việc với

chung này đối với các loại đại chúng, rõ ràng là xã hội học đại chúng cần phát triển xã
hội học gắn liền với đại chúng thông qua một hệ thống bao gồm Robert Park
(1972[1904]), Walter Lippmann (1922), John Dewey (1927), Hanna Arendt (1958),
Jürgen Habermas (1991 [1962]), Richard Sennett (1977), Nancy Fraser (1997), và
Michael Warner (2002) – nhằm hiểu hơn những khả năng và những cạm bẫy của xã hội
học đại chúng.
Bên cạnh việc tao ra những cộng đồng khác, bản thân chúng ta có thể hình thành cộng
đồng hoạt động trong lĩnh vực chính trị. Như quan điểm nổi tiếng Durkhem, các tổ chức
nghề nghiệp nên là một thành phần không thể thiếu của cuộc sống chính trị quốc gia- và
không chỉ nhằm mục đích bảo vệ những lợi ích nghề nghiệp riêng của họ. Do đó, Hiệp
hội Xã hội học Mỹ đã đóng góp rất nhiều vào cuộc tranh luận đại chúng, khi tổ chức này
đệ trình bản tóm tắt Amicus Curiae lên Tòa án Tối cao trọng vụ Michigan Affirmative
Action, khi nót tuyên bố rằng nghiên cứu xã hội học đã chứng minh sự tồn tại của chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã có những tác động và hậu
quả lên xã hội, khi những thành viên của tổ chức này áp dụng những giải pháp chống lại
cuộc chiến ở Iraq và chống lại thay đổi hiến pháp nhằm mục tiêu biến hôn nhân đồng tình
thành phi pháp, hay khi Hội đồng của ASA đã chống lại việc giam giữ nhà xã hội học
người Hy Lạp, Saad Ibrahim. Việc nói đại diện cho tất cả các nhà xã hội học là khó khăn
và nguy hiểm. Chúng ta nên chắc chắn rằng đã đạt được những vị trí trong cộng đồng
thông qua những cuộc thảo luận mở, sự tham gia miễn phí và công bằng của các thành
viên, thông qua việc phát triển dân chủ nội bộ. Sự đa dạng của xã hội học đại chúng
không chỉ phản anh những cộng đồng khác nhau, mà còn phản ánh những cam kết về giá
trị hác nhau của các nhà xã hội học. Xã hội học đại chúng không có khả năng kết hợp quy
chuẩn nội tại (intrinsic normative valence), ngoại trừ cam kết tranh luận về những vấn
đề được đưa ra bởi xã hội học. Xã hội học có thể hỗ trợ Chủ nghĩa Thuần túy Thiên Chúa
hay Xã hội học Tự do hoặc Chủ nghĩa Cộng sản. Nếu xã hội học thực tự hỗ trợ cho
những xã hội đại chúng nghiêm ngặt hay tự do hơn, đó là kết quả của việc phát triển các
đặc tính của cộng đồng xã hội học.
Có một cộng đồng sẽ không biến mất trước khi chúng ta thực hiện công việc – sinh viên
của chúng ta. Mỗi năm, chúng ta đào tạo khoảng 25.000 sinh viên đại học mới có chuyên

chính sách là xã hội học đối với dịch vụ có mục tiêu được xác định bởi một khách hàng.
Nguyên nhân tồn tại của xã hội học chính sách là nahwfm cung cấp những giải pháp cho
những vẫn đề được đặt ra với chúng ta, hay những giải pháp thích chợp mà chúng ta đã
đạt được. Một số khách hàng đã xác định nhiệm vụ của nhà xã hội học bằng một hợp
đồng hạn hẹp trong đó những khách hàng khác giống như những người khách quen sẽ
quyết định lộ trình chính sách chung. Ví dụ, việc là chuyên gia giám sát, một dịch vụ
quan trọng đối với cộng đồng, là một mối quan hệ tương đối rõ ràng với khách hàng
trong đó việc cấp vốn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ nhằm điều tra những nguyên nhân của chủ
nghĩa khủng bố có thể đưa ra một lộ trình nghiên cứu có tính mở hơn rất nhiều.
Ngược lại, xã hội học đại chúng đưa ra một mối quan hệ giao tiếp giữa các nhà xã hội
học và đại chúng trong đó vấn đề của mỗi bên được đặt lên bàn, trong đó mỗi bên điều
chỉnh bên còn lại. Trong xã hội học đại chúng, thảo luận thường liên quan tới những giá
trị hoặc những mục tiêu không được chia sẻ một cách tự động bởi 2 bên, do đó sự nhân
nhượng, hoặc như Habermas (1984) gọi là “hành động giao tiếp”, thường khó được duy
trì. Tuy nhiên, mục tiêu của xã hội học đại chúng vẫn là phát triển cuộc thảo luận như
vậy.
Tác phẩm bán chạy nhất của Barbara Herenreich “Nikel and Dimed”- một tác phẩm dân
tộc học của lao động thu nhập thất đã kết tội những hoạt động tuyển dụng của WalMart là
một ví dụ của xã hội học đại chúng; trong đó những bằng chứng chuyên môn của William
Bielby về vụ án phân biệt giới tính chống lại công ty này là một ví dục của xã hội học
chính sách. Những phương pháp tiếp cận của xã hội học đại chúng và xã hội học chính
sách không loại trừ lẫn nhau cũng không đối lập với nhau. Như trong trường hợp này,
chúng bổ trợ cho nhau. Xã hội học chính sách có thể trở thành xã hội học đại chúng, đặc
biệt là khi chính sách đã không thành công trong vụ kiện của James Coleman (1966,
1975) hay khi chính phủ từ chối hỗ trợ những đệ trình như của William Julius Wilson
trong việc tạo ra việc làm nhằm loại bỏ nghèo đói do phân biệt chủng tộc, hoặc sự tham
gia của Paul Starr trong cải cách chăm sóc sức khỏe những phụ nữ phát thai trong chính
quyền Bill Clinton. Tương tự, xã hội học đại chúng thường chuyển thành xã hội học
chính sách. Sự tham gia nổi tiếng của Diane Vaughan vào truền thông đối với thảo mọa
Columbia Shutter, dựa trên nghiên cứu trước đó của bả về thảm họa Challenger, đã mở

nó đã trửo nên quá phổ biến và phát triển vào bên trong.
Vai trò của xã hội học phê bình, loại hình xã hội học thứ tư của tôi, là kểm tra những nền
tảng – cả rõ ràng lẫn trừu tượng, cả quy chuẩn lẫn miêu tả- của những chương trình
nghiên cứu về xã hội học chuyên nghiệp. Chúng ta nghĩ về tác phẩm của Robert Lynd
(1939) người đã than phiền rằng khoa học xã hội đã từ bỏ trách nhiệm của mình trong
việc đối mặt với những vấn đề văn hóa và thể chế của báo chí trong thời đại này do quá
bị ám ảnh với những kỹ thuật và chuyên môn hóa. C. Wright Mills (1959) phê phán xã
hội học chuyên nghiệp trong những năm 1950 vì sự không thích hợp, hướng tới “lý
thuyết rộng” khó hiểu hoặc “chủ nghĩa kinh nghiệm trửu tượng” trong đó tách rời số liệu
ra khỏi hoàn cảnh. Alvin Gouldner (1970) đã nghiên cứu về chủ nghĩa chức năng cơ cấu
(structural functionalism) nhằm kiểm tra lại những giả thuyết của nó về một xã hội đồng
thuận, đi ngược với xu hướng xung đột leo thang trong những năm 1960. Chủ nghĩa bình
quyền, lý thuyết queer và lý thuyết chủng tộc phê bình đã công kích xã hội học chuyên
nghiệp vì đã bỏ sót sự phổ biến và sâu sắc của giới, tình dục và đàn áp chủng tộc. Trong
mỗi trường hợp, xã hội học phê bình nỗ lực làm xã hội học chuyên nghiệp nhận thức về
những thiên bị, sự im lặng, việc hỗ trợ những chương trình nghiên cứu mới được xây
dựng trên những cơ sở khác của nó. Xã hội học phê phán là lương tâm của xã hội học
chuyên nghiệp cũng như xã hội học đại chúng là lương tâm của xã hội học chính sách.
Xã hội học phê phán cũng cho chúng ta 2 câu hỏi giúp đặt 4 bộ phận của xã hội học trong
mối quan hệ với nhau. Câu hỏi thứ nhất được đưa ra bởi Alfred McLung Lee (1976)
trong tác phẩm President Address của ông, “Sociology for Whom?”. Liệu chúng ta chỉ
đang tự nói chuyện với bản thân mình (một khán giả cùng chuyên ngành) hay chúng ta
đang nói với những người khác (khán giả không cùng chuyên ngành). Đặt ra câu hỏi để
trả lời nó, do ít người sẽ ủng hộ một môn học “đóng” hoàn toàn, hay tiếp tục theo đuổi tri
thức chỉ với mục tiêu là tri thức. Để bảo vệ những khán giả ngoài chuyên môn, bất kể là
phục vụ những khách hàng hay nói chuyện với đại chúng, không có nghĩa là bác bỏ
những hiểm họa và rủi ro gắn liền với việc đó, mà có nghĩa là đây là việc cần làm kết cả
khi tồn tại những hiểm hỏa và rủi ro đó.
Bảng 1. Các bộ phận của Lao động Xã hội học
Khán giả chuyên môn Khán giả ngoài chuyên môn

chúng ta. Chúng không chỉ chia xã hội học thành 4 nhóm khác nhau, mà cho phép chúng
ta hiểu mỗi nhóm có kết cấu nội tại như thế nào.
4 loại tri thức của chúng ta không chỉ đại diện cho sự khác biệt về mặt chức năng của xã
hội học, mà còn phản ánh 4 khía cạnh riêng biệt của xã hội học. Việc chia tách lao động
xã hội học bên ngoài có vẻ rất khác biệt với quan điểm của xã hội học phê bình,ví dụ, khi
so sánh với quan điểm của xã hội học chính sách. Trên thực tế, xã hội học phê bình chủ
yếu định nghĩa bản thân thông qua việc đối nghịch với xã hội học chuyên nghiệp (chính
thống), bản thân nó được nhìn nhận là không thể tách biệt khỏi xã hội học chính sách. Xã
hội học chính sách cũng phản hồi bằng cách tấn công xã hoọi học phê bình trên khía cạnh
chính trị hóa và do đó làm mất thể diện của môn học. Do đó, từ mỗi phân loại chúng ta có
xu hướng quan trọng hóa, đồng nhất hóa và dập khuôn các phân loại khác. Do đó, chúng
ta phải dám nhận thức sự đa dạng của cả 4 loại hình xã hội học. Chúng ta có thể làm điều
này tốt nhất bằng việc đặt ra cho mình 2 câu hỏi cơ bản thêm 1 lần nữa: tri thức cho ai và
tri thức vì cái gì? Điều này dẫn tới sự khác biệt hóa nội tại của mỗi loại xã hội học, và do
đó, giúp có một bức tranh đa sắc thái hơn. Chúng ta cũng hoc về những những căng thẳng
trong quá trình định hướng mỗi loại theo hướng này hoặc hướng khác.
Chúng ta hãy bắt đầu với xã hội học chuyên nghiệp. Cốt lõi của nó là sự sáng tạo, xử lý
công phu, thoái hóa của những chương trình nghiên cứu. Nhưng cũng có một khía cạnh
chính sách của xã hội học chuyên nghiệp phụ thuộc vào nghiên cứu xã hội học trong một
thế giới mà chi phí nghiên cứu gây tranh cãi về mặt chính gị bị hạn chế rất nhiều, ví dụ
như chi phí nghiên cứu hành vi tình dục; quyết định của con người đối với ứng xử ngoại
giao; sự theo đuổi của chính phủ trong việc hỗ trợ các chương trình học bổng cho các
nhóm thiểu số… Khía cạnh chính sách này của xã hội học chuyên nghiệp được tập trung
tại Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ, và thể hiện trong các ấn bản thông tin Footnotes của nó.
Sau đó, đối với khía cạnh đại chúng của xã hội học chuyên nghiệp, đại diện cho những
phát hiện từ nghiên cứu theo một phương pháp có thể tiếp cận đối với một đối tượng xác
định. Đây là mục đích công khai của tạp chí mới, Contexts, nhưng một chức năng tương
tự cũng được thực hiện bởi “Congressional Briefings” được ASA tổ chức. Ở đây, chúng
ta cũng tìm thấy quá nhiều giáo viên tuyên bố những phát hiện trong nghiên cứu xã hội
học, và các cuốn sách giáo trình. Giữa xã hội học chuyên nghiệp và xã hội học đại chúng


Do quy mô của xã hội học chuyên nghiệp, chúng ta có thể nhận thấy những khác biệt hóa
về mặt chức năng, hay như Abbott (2001) gọi là “fractalization”, của xã hội học chuyên
nghiệp, nhưng những loại khác của xã hội học ít phát triển nội tại hơn, do đó chúng ta
nên nói về những khía cạnh hoặc góc độ khác nhau của chúng. Do đó, hoạt động cốt lõi
của xã hội học đại chúng- cuộc thảo luận giữa các nhà xã hội học và công chúng của họ-
được hỗ trợ (hoặc không) bởi các mô-men chính trị, phê bình và chuyên nghiệp. Ví dụ,
nghiên cứu truyền thông của Boston Collegue và Dự án hành động đã đưa các nhà xã hội
học đến với các nhà tổ chức xã hội nhằm khám phá ra cách tốt nhất để đưa các vấn đề xã
hội lên truyền thông. Có một động lực nghề nghiệp đối với dự án dựa trên ý tưởng của
William Gamson về việc xây dựng khung, một động lực về mặt phê bình được dựa trên
một số phương pháp hạn chế trong đó truyền thông hoạt động, và một động lực về mặt
chính sách nămts bắt những mục tiêu hữu hình của các nhà tổ chức cộng đồng. Charlotte
Ryan (2004) miêu tả sự căng thẳng trong dựa án bắt nguồn từ những yêu cầu trái ngược
giữa thực tiễn của xã hội học đại chúng và ảnh hưởng nghề nghiệp của xã hội học chuyên
nghiệp, trong khi Gamson (2004) nhấn mạnh cam kết hạn chế về mặt kinh tế của trường
đại học đối với dự án nhằm giúp các cộng đồng trong trường đại học mạnh hơn.
Xã hội học chính sách cũng có các động lực đại chúng, phê bình và chuyên nghiệp của
nó. Sau đây là một nghiên cứu thú vị của Judy Stacey (2004) với vai trò là một nhân
chứng có chuyên môn bảo vệ hôn nhân đồng giới ở Ontario, Canada. Những người phản
đối hôn nhân đồng giới đã dựa trên tác phẩm nổi tiếng của bà được xuất bản trong
“American Sociology Review” (Stacey và Biblarz 2001). Tác giả lập luận rằng mặc dù
những nghiên cứu chỉ ra những khác biệt không đáng kể của việc phụ huynh đồng giới
nam nuôi dưỡng trẻ- rằng trẻ thường có xu hướng cới mở hơn với đa dạng tình dục-
không có bằng chứng cho rằng những tác động đó là có hại. Những người phản đối hôn
nhân đồng giới lập luận rằng Stacey và Biblarz đã thực hiện nghiên cứu thiếu tính khoa
học do đó, không thể rút ra những kết luận như trên. Judy Stacey, do đó, bị đặt vào một
tình thế bất thường để bảo vệ cơ sở kho học của những kết luận của mình. Hơn thế, việc
bảo vệ quyền tự do của đồng giới nam dẫn tới bảo vệ hôn nhân đồng giới- một khía cạnh
mà bà đã cho rằng cần phản đối mạnh mẽ trong những tác phẩm học thuật của mình.

của lĩnh vực nghiên cứu nói chung.
Chúng ta nên phân biệt giữa bộ phận của lao động xã hội học và những nhà xã hội học
chiếm một vị thế nhất định trong số những người lao động trên. Khoảng 30% tiến sĩ làm
việc bên ngoài trường đại học, chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu chính sách, nơi học có
thể tham gia vào lĩnh vực đại chúng (Kang 2003). 70% còn lại giảng dạy trong các trường
đại học, giữ phần xã hội học chuyên nghiệp, thực nhiện nghiên cứu hoặc giới thiệu những
kết quả nghiên cứu, nhưng họ có thể nắm giữ những vị trí trong các phần khác, ít ra là
nếu họ là giáo viên thường xuyên ở một cơ sở khác. Ngược lại, lực lượng những người
lao động tự do, những giảng viên tạm thời, giáo viên hướng dẫn bán thời gian – bị gắn
vào một địa điểm duy nhất, được trả một khoản thù lao thấp (2000 USD – 4000 USD một
khóa) cho các buổi giảng dạy hết mình, với việc làm không đảm bảo và thường không có
lợi nhuận (Spalter Roth và Erskine 2004). Họ xuất hiện phổ biến hơn ở các trường đại
học uy tín, có thể chiếm tới 40% số giảng viên và 40% số tiết học. Đây là những lao động
cấp thấp, những người trợ cấp cho các nghiên cứu và thu nhập của các giảng viên chính,
giúp họ tập trung hơn vào các hoạt động khác.
Do đó, rất nhiều trong số hầu hết các nhà xã hội học kiệt xuất đã tham gia vào rất nhiều
lĩnh vực. Ví dụ, James Coleman cùng lúc làm việc trong cả lĩnh vực chuyên nghiệp và
chính sách trong khi phản đối xã hội học đại chúng và phê bình. Christopher Jencks,
người đã làm việc những lĩnh vực chính trị, là một chuyên gia trong việc kết hợp những
động lực của những cam kết có tính đại chúng và phê bình với chuyên nghiệp và chính
sách. Tất nhiên, những nhà xã hội học đã hoặc đã từng có những vị trí thoải mái trong số
các khó xã hội học hàng đầu, nơi các điều kiện làm việc cho phép họ tham gia nhiều lĩnh
vực. Hầu hết trong chúng ta chỉ làm việc trong một lĩnh vực vào 1một thời điểm. Do đó
chúng ta có thể tập trung vào sự nghiệp của mình.
Các nhà xã hội học không chỉ cùng lúc làm việc trên nhiều vị trí, mà còn thực hiện
nghiên cứu xuyên thời gian về 4 bộ phận của xã hội học. Trước khi thống nhất các nghề
nghiệm chuyên môn, những phong trào trong các bộ phận này là không đều đặn. Bất
đồng ngày càng cao với môn học và bị gạt ra ngoài do sắc tộc của mình, sau khi hoàn
thành tác phẩm “the Philadenphia Negro” năm 1899, và sau khi xây dựng và vận hành
phòng thí nghiệm Atlanta Sociological Laboratory tại trường đại học Atlanta từ năm

7
Ngày nay, các nghề nghiệp về xã hội học có tổ chức chặt chẽ hơn ở thời của Mill. Một
sinh viên tốt nghiệp điển hình, có lẽ được truyền cảm hứng bới một giáo viên đại học
hoặc có nhiệt huyết từ sự kiệt quệ của phong trào xã hội- vào học cao học với khuynh
hướng phê bình, muốn học nhiều hơn về những khả năng thay đổi của xã hội, bất kể đó là
việc hạn chế sự lây truyền AIDS ở Châu Phi, sự lệch lạc của bạo lực của tuổi trẻ, điều
kiện cho sự thành công của các phong trào nam nữ bình quyền ở Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, gia
đình với vai trò là nguồn gốc của đạo đức, đa dạng trong hỗ trợ phạt tư bản, những vấn đề
đại chúng của Đạo Hồi… Ở đó, cô ta đối mặt với một loạt những khóa học bắt buộc, mỗi
môn học đều yêu cầu lĩnh hội được những tài liệu thâm thúy hay những kỹ thuật trừu
tượng. Sau 3 hay 4 năm, cô ta sẵn sàng làm những bài kiểm tra chất lượng hoặc sơ bộ
trong 3 hoặc 4 lĩnh vực, những lĩnh vực liên quan tới luận văn tiến sĩ của cô ta. Toàn bộ
quá trình có thể mất 5 năm trở lên. Dường như các trường cao học hoạt động nhằm mục
đích loại bỏ những cam kết đạo đức là nguồn động lực ban đầu của xã hội học.
Cũng như Durkheim nhấn mạnh những nhân tố không có tính khế ước của hợp đồng- sự
đồng thuận ngầm ẩn và niềm tin mà nếu thiếu nó, các hợp đồng sẽ không thể được thực
hiện- chúng ta cũng phải nhìn nhận tầm quan trọng của những nhân tố phi nghề nghiệp
nằm ẩn ngầm dưới nghề này. Rất nhiều trong số 50% đến 70% sinh viên tốt nghiệp nhận
được bằng tiền sĩ vẫn giữ được những cam kết của họ bằng việc thực hiện các công việc
liên quan tới xã hội học đại chúng- thường thì các giáo viên hướng dẫn không biết về việc
này. Tôi thường xuyên nghe các khoa chuyên ngành khuyên sinh viên của họ từ bỏ xã hội
học đại chúng sau khi trở thành giảng viên- mà không biết được rằng (hoặc nhận biết 1
cách đầy đủ?) xã hội học đại chúng là nhân tố giữ sự sống cho những đam mê của xã hội
học. Nếu học viên làm theo những lời khuyên trên, rút cục có thể họ sẽ trở thành những
người lao động theo một ngành nghề nào đó, trong trường hợp đó, xã hội học đại chúng
sẽ ít được quan tâm hơn; hoặc nếu may mắn hơn họ có thể kiếm được một công việc liên
quan tới giảng dạy, khi đó họ phải lo lắng về việc viết các bài báo để xuất bản hoặc viết
sách để được các nhà sách uy tín in tác phẩm của mình. Khi họ trở thành giáo viên, họ có
thời gian thực hiện những đam mê tuổi trẻ của mình, nhưng tới khi đó, họ đã không còn
trẻ. Có thể họ đã mất đi tất cả những quan tâm tới xã hội học đại chúng, hướng tới một

những người lo ngại rằng sự tham gia của đại chúng sẽ ảnh hướng tới kho học, đe dọa
tính hợp pháp của môn học, đồng thời làm mất đi các nguồn tài liệu.
Tôi có quan điểm ngược lại- rằng giữa xã hội học đại chúng và chuyên nghiệp nên có, và
thường có, sự tôn trọng và tính trợ lực. Không những không phù hợp với nhau, 2 bộ phận
này giống như cặp sinh đôi dính liền. Trên thực tế, quan điểm quy chuẩn của tôi về xã hội
học là mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau giữa 4 bộ phận của xã hội học- một sự thống nhất
hữu cơ trong đố mỗi loại xã hội học có được năng lượng, ý nghĩa và sự tưởng tượng từ
mối quan hệ với những yếu tố còn lại.
Như tôi đã nói, xã hội học chuyên nghiệp nằm ở trung tâm. Không có nó, sẽ không có
xã hội học đại chúng hay chính sách, và cũng không có xã hội học phê bình- vì sẽ
không có gì để phê bình. Sự tồn tại của xã hội học chuyên nghiệp phụ thuộc vào những
thay đổi liên tục của xã hội thông qua xã hội học đại chúng. Chính những phong trào
quyền công dân đã thay đổi những nhận thức của các nhà xã hội học về chính trị; chính
phong trào nam nữ bình quyền đã mang tới rất nhiều khía cạnh mới cho xã hội học.
Trong cả hai trường hợp, chính những nhà xã hội học trong việc tham gia vào những
phong trào đó đã thổi những ý tưởng mới vào xã hội học. Tương tự, luận văn của Linda
Waite về xã hội học đại chúng liên quan tới vấn đề cưới xin, đã tạo ra cuộc thảo luận
sôi nổi trong ngành. Xã hội học phê bình có thể là một cái gai đối với xã hội học
chuyên nghiệp, nhưng nó lại quan trọng trong việc bổ sung nhận thức về những giả
thuyết chúng ta đưa ra, do đó, chúng ta có thể điều chỉnh các giả thuyết đó. Những
thách thức của Alvin Goulder đối với thuyết chức năng cấu trúc thật mạnh mẽ và hăng
hái; đồng thời, ông cũng phê bình cách thức mà xã hội học chính sách đã quá thờ ơ với
những quản lý xã hội bức bối. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy trong xã hội học phê
bình những phong trào đòi “xã hội học thuần túy”, một xã hội học khoa học được thanh
lọc bởi sự tham gia của đại chúng. Xã hội học chuyên nghiệp ngày hôm qua có thể trở
thành phê bình ngày hôm nay. Về phần mình, xã hội học chính sách đã khuyến khích sự
bất bình đẳng trong đầu tư nghiên cứu nghèo đói và giáo dục. Gần đây hơn, nghiên cứu
ý tế đã gắn liền với cả 4 môn xã hội học thông qua sự liên kết với các nhóm công dân
liên quan tới các bệnh này như ung thư vú, xây dựng những mô hình mới của môn khoa
học này, (Brown và các cộng sự 2004; McCormick và các cộng sự…).

nghiệp, sự tập trung được đặt lên nhiệm vụ tạo ra những lý thuyết gắn liền với thế giới
thực tiễn; trong trường hợp xã hội học chính sách, tri thức phải “thực tiễn” và “hữu
dụng”; trong khi đó tri thức xã hội học đại chúng dựa trên sự đồng thuận giữa các nhà xã
hội học và đại chúng của họ; trong khi với xã hội học phê bình, sự thật là cơ sở quy
chuẩn dẫn đường. Mỗi loại xã hội học cũng có tính hợp pháp riêng: xã hội học chuyên
nghiệp tự xem xét mình dựa trên cơ sở khoa học, xã hội học chính sách dựa trên cơ sở
hiệu quả, xã hội học đại chúng dựa trên sự xác đáng và xã hội học phê bình hỗ trợ cho
những quan điểm đạo đức. Mỗi loại xã hội học cũng có tính tin cậy riêng. Xã hội học
chuyên nghiệp hướng tới việc xem xét sâu sắc vấn đề, xã hội học chính sách hướng tới
các khách hàng của nó, xã hội học đại chúng hướng tới đối tượng đại chúng xác định,
trong khi xã hội học phê bình hướng tới một cộng đồng trí tuệ, những người có thể vượt
qua được những ranh giới mang tính nguyên tắc. Hơn thế, mỗi loại xã hội học có chính trị
riêng của mình. Xã hội học chuyên nghiệp bảo vệ những điều kiện khoa học, xã hội học
chính sách can thiệp vào các chính sách hiện thời, xã hội học đại chúng xem xét chính trị
là buổi nói chuyện dân chủ trong khi xã hội học phê bình cam kết đưa ra những cuộc thảo
luận trong phạm vi môn học.
Cuối cùng, và quan trọng nhất, mỗi loại xã hội học đều bị tác động bởi hạn chế của bản
thân nó, bắt nguồn từ các hoạt động nhậnh thức và sự gắn liền vào các tổ chức đa dạng.
Những người nghiên cứu trong phạm vi hẹp với các chuyên ngành liên quan có thể bị hạn
chế bởi tính hẹp hòi. Trong quá trình theo đuổi câu trả lời cho các câu hỏi, được xác định
bởi những chương trình nghiên cứu, xã hội học chuyên nghiệp có thể dễ dàng tập trung
vào những đối tượng có xu hướng không liên quan tới xã hội học
8
. Trong nỗ lực của
chúng ta để bảo vệ vị thế của mình trong giới khoa học, chúng ta thực sự có lợi khi độc
quyền hóa một hệ thống tri thức không thể tiếp cận, điều này có thể dẫn tới sự ra đời của
tri thức khó hiểu và “phương pháp luận” hẹp hòi. Cũng như xã hội học chuyên nghiệp, xã
hội học phê bình cũng có xu hướng dẫn tới chủ nghĩa bè phái- những cộng đồng với giáo
điều không có mối liên hệ trực tiếp với xã hội học chuyên nghiệp hoặc hợp nhất giá trị
vào xã hội học đại chúng. Mặt khác, xã hội học chính sách cũng dễ dàng bị nắm bắt bởi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status