Nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại VPBank - Pdf 10

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 là năm có nhiều dấu ấn lịch sử lớn: Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Hội nghị APEC 2006 tại Hà Nội thành công tốt đẹp, Việt Nam đã
chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây
cũng là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc của các ngân hàng. Có nhiều sự
kiện nổi bật, không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngành mà mang tầm ảnh hưởng
đến cả nền kinh tế: các đợt tăng lãi suất vẫn tiếp diễn và căng thẳng, các ngân
hàng đua nhau tăng vốn điều lệ, lợi nhuận của các ngân hàng đạt mức cao
nhất từ trước đến nay, tỷ lệ nợ xấu được cải thiện, giá cổ phiếu của các ngân
hàng tăng cao,…
Hòa chung vào không khí sôi động đó, VPBank cũng gặt hái được
những thành công vượt bậc: vốn điều lệ tăng từ 310 tỷ đồng lên 750 tỷ đồng,
mạng lưới hoạt động được mở rộng ở hầu hết các tỉnh thành trọng điểm của
cả nước, lợi nhuận trước thuế và dự phòng rủi ro trên 156 tỷ đồng. Tuy vậy,
trong bối cảnh hiện nay, khi mà các ngân hàng thương mại nước ngoài được
phép hiện diện thương mại tại Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO và hiệp
định thương mại Việt – Mỹ thì cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ ngày càng
gay gắt và khốc liệt, vì vậy để có thể hòa nhập, tồn tại và phát triển VPBank
cần phải nâng chất lượng và hiệu quả kinh doanh của mình. Một trong những
biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, đặc
biệt là nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp
xin vay vốn_một vấn đề còn nhiều bất cập tại VPBank.
Xuất phát từ thực tiễn quan sát, tìm hiểu hoạt động tín dụng nói chung
và công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp nói riêng tại VPBank,
đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng tại VPBank” được chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
Nội dung chính của khóa luận được trình bày theo 3 chương:
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
1
Khóa luận tốt nghiệp

dịch vụ của ngân hàng thì để đưa ra một khái niệm chính xác về ngân hàng
thương mại là cả một vấn đề. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét
các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Theo đó, Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán-và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
3
Khóa luận tốt nghiệp
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng ngày càng đa dạng. Từ các dịch vụ truyền thống của ngân
hàng như thực hiện trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu và cho vay
thương mại, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá, tài trợ cho các hoạt động của
Chính phủ, cung cấp các tài khoản giao dịch… đến các dịch vụ ngân hàng mới
phát triển gần đây như cho vay tiêu dùng, dịch vụ thuê mua thiết bị, cung cấp
dịch vụ tương hỗ và trợ cấp, cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán…Đặc biệt với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, khoảng cách về không
gian đã không còn là vấn đề, các dịch vụ chuyển tiền nhanh, homebanking,
phonebanking, internetbanking… đã được hầu hết các ngân hàng trên thế giới áp
dụng. Tuy nhiên, cho dù nền kinh tế có phát triển đến trình độ nào chăng nữa,
các dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại vẫn không thay đổi, nó được
thể hiện ở ba hoạt động chủ yếu của chúng: hoạt động huy động vốn, hoạt
động tín dụng và hoạt động thanh toán. Ba hoạt động đó có mối quan hệ chặt
chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Trong đó, hoạt động tín dụng là một hoạt
động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất và đem lại thu nhập chủ yếu cho
ngân hàng.
 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
 Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).

_Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm. Tín dụng
ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn của Nhà nước doanh nghiệp, hộ sản xuất.
_Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm.
Loại tín dụng này nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận
tải, trang thiết bị chống hao mòn,…
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
5
Khóa luận tốt nghiệp
_Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng
này nhằm tài trợ nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như đầu tư xây dựng
nhà xưởng, công trình xây dựng như nhà xưởng, sân bay, cầu, nhà máy thủy điện…
* Phân loại theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo bởi vì khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro và có thể không trả
được nợ cho ngân hàng. Trừ những khách hàng lớn và có uy tín cao, nhiều
khách hàng phải có tài sản hữu hình để đảm bảo cho khoản tiền mà họ vay
ngân hàng. Tài sản đảm bảo (tài sản hữu hình) giúp cho ngân hàng có nguồn
trả nợ thứ hai khi mà nguồn trả nợ thứ nhất không đảm bảo trả nợ và ràng
buộc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích. Theo cách phân loại này, tín
dụng được chia thành tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình và tín dụng
đảm bảo bằng tài sản vô hình.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình: Là hình thức tín dụng trong đó
khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản hữu hình
(các tài sản mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả
nợ) để cấm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản hữu hình của bên thứ
ba được ngân hàng đồng ý.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình: Là hình thức tín dụng trong đó
ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần
cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng

ngân hàng, thậm chí phá sản ngân hàng. Thực tế lịch sử của ngành ngân hàng
đã chứng kiến rất nhiều cuộc khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng đều xuất
phát từ nguyên nhân sâu sa là rủi ro từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, để đưa ra
một quyết định tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng
và khách hàng thì hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm
ngặt một quy trình chặt chẽ, đó là quy trình tín dụng.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
7
Khóa luận tốt nghiệp
 Quy trình tín dụng
Để chuẩn hóa quy trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu hồi nợ với
khách hàng trong toàn hệ thống, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín
dụng. Đó chính là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban liên quan
trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Thông thường quy
trình tín dụng gồm bốn bước sau.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín
dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý thông tin liên quan
đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra
lợi nhuận và nguồn vốn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh
tế khác liên quan đến khách hàng.
Trước tiên, cán bộ tín dụng cần phải thu thập thông tin về khách hàng
xin vay vốn. Thông tin về khách hàng có thể thu thập từ nhiều nguồn khác
nhau như phỏng vấn trực tiếp, hồ sơ do khách hàng cung cấp, thông tin lưu
trữ tại ngân hàng, thông tin từ các nguồn khác như thông tin từ các công ty
mua bán thông tin, thông tin có được từ các cơ quan quản lý…Sau khi có đầy
đủ các thông tin, ngân hàng tiến hành kiểm tra tính chính xác của các thông
tin đó và tiến hành phân tích tín dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá khách
hàng trên các mặt về năng lực pháp lý của khách hàng, uy tín của khách hàng,
thẩm định tình hình tài chính khách hàng, đánh giá năng lực điều hành sản

phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà cón giúp xác định
được vấn đề cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân
hàng hay không.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
9
Khóa luận tốt nghiệp
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản tín dụng được hoàn trả đúng hạn.
Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc”
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc xem xét, tìm ra
nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết
định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng.
Trên đây là các bước mà cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thực hiện
trước khi ngân hàng quyết định tài trợ cho khách hàng. Trong bốn bước đó,
bước 1 là quan trọng nhất và quyết định xem liệu ngân hàng có nên cấp tín
dụng cho khách hàng hay không. Trong bước 1, thẩm định tình hình tài chính
doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, chi phối đến quyết định tài trợ của
ngân hàng cho khách hàng. Vậy thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp là
gì và nội dung thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại như thế nào. Tất cả những điều đó sẽ được
làm rõ ở phần tiếp theo.
1.1.2. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết thẩm định tình hình tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng thương mại là rà soát, kiểm tra lại, đánh giá một cách khách quan,
khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trên

Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
11
Khóa luận tốt nghiệp
tình hình tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định
tín dụng, vì nếu thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch
và xảy ra rủi ro cho ngân hàng, làm giảm thu nhập của ngân hàng, thậm chí có
thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Như vậy, thẩm định tình hình tài chính
doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại rất quan
trọng, nó là nội dung không thể thiếu của thẩm định khách hàng. Cùng với
thẩm định các yếu tố khác, thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại rất cần thiết, ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ngân hàng có thu được cả gốc và lãi đúng hạn hay không. Vậy,
thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu
gì, điều này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
1.1.2.2. Nội dung thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
a. Thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Trước khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín
dụng phải tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính do doanh
nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố quyết định tới chất lượng thẩm định. Một báo cáo
tài chính sẽ trở nên vô nghĩa đối với ngân hàng khi nó được làm “đẹp” và phản ánh
không chính xác tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong trường
hợp này, các công việc tiếp theo hầu như không có giá trị.
Để tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính, cán bộ tín
dụng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các báo cáo tài chính
như các báo cáo tài chính gửi cho ngân hàng có giá trị pháp lý không, các số
liệu trong các báo cáo tài chính có đảm bảo phù hợp không hay mâu thuẫn
nhau, chế độ kế toán và phương pháp kế toán áp dụng có tuân thủ đúng quy
định của pháp luật không. Đó là quá trình kiểm tra, đánh giá sơ bộ.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C

Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
13
Khóa luận tốt nghiệp
cung cấp là đúng sự thật và doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về tính chính
xác của các báo cáo này. Sau khi xác minh, đánh giá mức độ tin cậy của các
báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định nội dung trong các
báo cáo tài chính đó.
b. Thẩm định các báo cáo tài chính
 Thẩm định các khoản mục trong bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán có
hai phần: bên trái là các khoản mục tài sản và bên phải là khoản mục nợ và
vốn chủ sở hữu. Bảng cân đối kế toán cho người sử dụng biết những tài sản
doanh nghiệp sở hữu và cách thức tài trợ chúng. Nhìn vào Bảng cân đối kế
toán, cán bộ tín dụng có thể nhận biết được các loại hình doanh nghiệp, quy
mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một
tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho cán bộ tín dụng đánh giá được khả
năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của
doanh nghiệp.
Nhìn chung, việc thẩm định bảng cân đối kế toán bắt đầu bằng việc cán
bộ tín dụng sẽ đánh giá khái quát các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn và
sự biến động của chúng, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa tài sản và vốn.
Trong quá trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ liên tục
biến động cả về quy mô và cơ cấu. Thông thường, khi tổng tài sản tăng chứng
tỏ doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất kinh doanh và kết quả là doanh thu,
lợi nhuận cũng tăng theo. Trường hợp tổng tài sản tăng nhưng doanh thu
không tăng phải tìm hiểu nguyên nhân có thể do tài sản cố định mới đưa vào
hoạt động hoặc doanh thu không tăng nhưng lợi nhuận tăng có thể do quản lý
về tài chính tốt hơn, giảm chi phí... Những trường hợp tổng tài sản tăng mà
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C

Khóa luận tốt nghiệp
nắm giữ tiền mặt có hai mặt của nó, khi cán bộ tín dụng đánh giá khoản mục
này cần đánh giá lượng nắm giữ tiền mặt hợp lý của doanh nghiệp. Vì nếu
doanh nghiệp nắm giữ quá nhiều tiền mặt sẽ giảm khả năng sinh lời, còn nắm
giữ quá ít có thể dẫn đến rủi ro thanh toán, việc nắm giữ lượng tiền mặt bao
nhiêu tùy thuộc vào từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp và chiến lược
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, xét cho đến cùng các
khoản vay ngân hàng sẽ được trả bằng tiền mặt, vì vậy cán bộ tín dụng cần
đánh giá được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp.
_Các khoản phải thu: Đây là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản phải
thu từ khách hàng, khoản đặt trước cho người bán. Các khoản phải thu cho
thấy số vốn doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng. Các khoản phải thu phải
được xem xét một cách cẩn thận vì đây là nguồn chủ yếu để doanh nghiệp chi
trả các khoản vay đến hạn. Khi xem xét các khoản phải thu, cán bộ tín dụng
tìm hiểu về phương thức tiêu thụ, chính sách thanh toán tiền hàng (chiết khấu
thanh toán), khả năng quản lý nợ của doanh nghiệp để nhận xét về khả năng
thu hồi các khoản phải thu của doanh nghiệp và loại trừ các khoản bán chịu
không thu được, khó thu được hoặc đã bán cho người khác, đồng thời cần xác
định vòng quay các khoản phải thu. Vì các khoản phải thu, giống như các tài
sản khác, phải được tài trợ theo một cách nào đó vì vậy khi đánh giá các
khoản phải thu cán bộ tín dụng cần xem xét trong mối liên hệ với các khoản
phải trả và các khoản nợ khác của doanh nghiệp.
_Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các
tài sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
_Dự trữ: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị thực các loại hàng tồn kho
dự trữ cho quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều món
vay ngắn hạn nhằm mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa, có nghĩa là một phần hàng
hóa trong kho được hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Do đó, cán bộ tín
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
16

 Thẩm định chi tiết các khoản mục nguồn vốn
_Nợ phải trả: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ số nợ mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải trả tại thời điểm lập báo cáo. Nợ phải trả là nguồn vốn mà
doanh nghiệp chiếm dụng của các đối tác. Xét về mặt lợi ích thì chi phí doanh
nghiệp trả cho việc sử dụng nó rất thấp nhưng nếu các khoản phải trả quá lớn
thì có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đặc biệt, nếu doanh nghiệp có
các khoản nợ dây dưa kéo dài thì cần xem xét lại uy tín của doanh nghiệp.
Các khoản phải trả nói lên uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng, khi đánh
giá các khoản phải trả cán bộ tín dụng cần chú ý, nếu doanh nghiệp có các
khoản phải trả lớn và các hoạt động của doanh nghiệp diễn ra bình thường,
các chỉ tiêu tài chính khác tốt thì có nghĩa là doanh nghiệp có uy tín lớn đối
với bạn hàng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có các khoản phải trả lớn, tình
hình kinh doanh không tốt, các khoản nợ nần chưa trả được tích lũy lại thì uy
tín của doanh nghiệp đang giảm sút, nếu không có biện pháp kịp thời có thể
dẫn đến mất khả năng thanh toán và nguy cơ phá sản cao.
Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn là chỉ
tiêu phản ánh tổng giá trị các khoản nợ mà doanh nghiệp còn phải trả, có
thời hạn trả trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh tại thời điểm
báo cáo. Các khoản nợ ngắn hạn dùng để tài trợ cho các tài sản lưu động.
Các khoản nợ ngắn hạn nói lên nhu cầu tiền mặt doanh nghiệp cần có để trả
nợ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp. Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn trên một năm hoặc phải trả
sau một chu kỳ kinh doanh, thông thường các khoản nợ dài hạn dùng để tài
trợ cho tài sản cố định. Mặc dù, nợ dài hạn không ảnh hưởng mạnh đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại nhưng chúng nói lên các khoản
mà doanh nghiệp phải trả trong dài hạn, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải
có kế hoạch để trả nợ.
Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
18

cầu khách hàng cung cấp các báo cáo kết quả kinh doanh ít nhất của 2 năm
gần nhất. Thẩm định báo cáo kết quả kinh doanh, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành
thẩm định như sau:
 Thẩm định doanh thu
Cán bộ tín dụng cần phân tích tổng doanh thu về mức tăng và tốc độ tăng
doanh thu của doanh nghiệp qua các năm. Qua phân tích doanh thu kết hợp
với những phân tích trong phần thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp để rút ra kết luận về những kết quả, hạn chế của doanh
nghiệp trong việc tiếp cận thị trường và mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, cần phân tích tổng doanh thu của từng quý, từng tháng để
xác định được những thời điểm hoạt động mạnh của công ty và so sánh với
hoạt động của cùng kỳ năm trước, điều này rất quan trọng đặc biệt là đối với
những doanh nghiệp hoạt động sản xuất theo mùa vụ. Với những thay đổi bất
thường trong tổng doanh thu của doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng phải
xem xét một cách kỹ lưỡng và giải thích nguyên nhân của sự thay đổi bất
thường đó.
 Thẩm định chi phí
Khi đánh giá chỉ tiêu chi phí, cán bộ tín dụng cần đánh giá những chi
phí hợp lý của doanh nghiệp, những chi phí đóng góp vào việc tạo ra doanh
thu. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cần xem xét các chi phí không được tính vào
chi phí hợp lý và các khoản chi phí “chìm” mà doanh nghiệp không thể
hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh để có được những đánh giá chính
xác hơn.
Chỉ tiêu quan trọng nhất trong báo cáo kết quả kinh doanh của doanh
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
20
Khóa luận tốt nghiệp
nghiệp đó là lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại
và phát triển được hay không phu thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo
ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài

dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường. Sau khi xác định dòng
tiền nhập quỹ và dòng tiền nhập quỹ, căn cứ vào số dư ngân quỹ đầu kỳ sẽ
xác định được số dư ngân quỹ cuối kỳ. Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
cán bộ tín dụng đánh giá và dự báo mức ngân quỹ của doanh nghiệp thời gian
tới, đánh giá được khả năng trả nợ doanh nghiệp. Bởi lẽ, suy cho cùng, không
phải lượng tiền doanh nghiệp hiện tại hay lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ đảm
bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp, mà nhân tố quyết định khả năng chi
trả của doanh nghiệp chính là dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai.
 Thẩm định các khoản mục trong thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong báo cáo tài chính. Đồng thời, giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải
thích một cách rõ ràng và chi tiết. Đây là một báo cáo quan trọng giúp cán bộ tín
dụng đánh giá chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, sau khi thẩm định các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ có
cái nhìn khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đánh
giá một báo cáo tài chính cần phải đặt trong mối liên hệ với các báo cáo tài
chính còn lại để có một bức tranh đầy đủ và chi tiết về tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đánh giá các khoản mục trong các báo cáo
tài chính, cán bộ tín dụng còn phải đánh giá các tỷ số tài chính.
c. Thẩm định các tỷ số tài chính
Các tỷ số tài chính là những số liệu tương đối được xây dựng trên cơ sở
các khoản mục trong các báo cáo tài chính. Khi thẩm định các tỷ số tài chính,
cán bộ tín dụng sẽ tính toán các tỷ số này theo thời gian rồi so sánh với nhau
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
22
Khóa luận tốt nghiệp
để thấy xu hướng biến động, và so sánh với trung bình của ngành để thấy vị
thế của doanh nghiệp. Khi thẩm định các tỷ số tài chính, có 4 nhóm tỷ số sau
được cán bộ tín dụng quan tâm:

doanh nghiệp coi là có khả năng đáp ứng nghĩa vụ các khoản nợ hiện hành.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, cán
bộ tín dụng còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động
thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng
và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ
ngắn hạn. Nếu vốn lưu động ròng của doanh nghiệp âm chứng tỏ doanh
nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn vào đầu tư tài sản cố định, điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
 Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản lưu động – Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Nó được xác định bằng cách lấy các tài sản quay vòng nhanh chia cho nợ
ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, các chứng khoán ngắn hạn, các khoản
phải thu. Dự trữ là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản
lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán
nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc
vào việc sử dụng dự trữ.
Nếu tỷ số này lớn thì khả năng thanh toán tương đối khả quan. Nếu tỷ số
này nhỏ cho thấy doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ
vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên nếu quá lớn, lại phản ánh tình hình
không tốt vì vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
24
Khóa luận tốt nghiệp
 Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn: Nhóm chỉ tiêu này đo lường
mức độ ổn định, tự chủ tài chính, khả năng sử dụng nợ vay của doanh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status