Luận văn: Tác động của dòng vốn và những giải pháp kiểm soát dòng vốn tại Việt Nam trong quá trình hội nhập - Pdf 10


Luận văn
Tác động của dòng vốn và
những giải pháp kiểm soát
dòng vốn tại Việt Nam trong
quá trình hội nhập

1

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 01
CHƯƠNG I: DÒNG VỐN VÀ KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT VỐN Ở MỘT SỐ
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 03
1.1. Tổng quan về dòng vốn quốc tế 03
1.1.1. Khái niệm 03
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của dòng vốn quốc tế 04
1.2. Tác động của dòng vốn quốc tế 05
1.2.1. Những ảnh hưởng của dòng vốn quốc tế đến nền kinh tế 05
1.2.2. Kiểm soát vốn có phải là việc làm cần thiết hay không 07
1.3. Xu hướng chung của dòng vốn những năm gần đây 08
1.4. Kinh nghiệm kiểm soát dòng vốn tại một số quốc gia đang phát triển 12
1.4.1.Xu hướng dòng vốn và những nguyên nhân hình thành nên xu hướng này tại một
số quốc gia đang phát triển 12
1.4.1.1.Hàn Quốc 13
1.4.1.2.Thái Lan, Malaysia và Indonesia 14
1.4.2. Kinh nghiệm kiểm soát dòng vốn tại Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia 16
1.4.2.1. Kinh nghiệm kiểm soát dòng vốn của Hàn Quốc 16
1.4.2.2. Kinh nghiệm kiểm soát dòng vốn của Thái Lan 19

NHẬP 55
3.1. Những thách thức đối với xu hướng của dòng vốn trong giai đoạn hội nhập 55
3.1.1. Những dự đoán liên quan đến sự luân chuyển của dòng vốn 55
3.1.2. Rủi ro liên quan đến kết cấu dòng vốn 58
3

3.2. Những quan điểm chủ đạo khi thực hiện kiểm soát vốn tại Việt Nam 60
3.3. Kiểm soát để dòng vốn trở thành tác nhân tạo nên sự tăng trưởng và phát
triển ổn đònh của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập 68
3.3.1. Thực hiện các giải pháp tác động lên dòng vốn vào 68
3.3.1.1.Các giải pháp trực tiếp kiểm soát dòng vốn vào 68
3.3.1.2.Các giải pháp gián tiếp kiểm soát dòng vốn vào 69
3.3.2. Thực hiện các giải pháp tác động lên dòng vốn ra 71
3.3.2.1.Các giải pháp trực tiếp kiểm soát dòng vốn ra 71
3.3.2.2.Các giải pháp gián tiếp kiểm soát dòng vốn ra 72
3.3.3. Các giải pháp hướng đến môi trường đầu tư 73
3.4. Một số giải pháp về chính sách an toàn tài chính nhằm giảm thiểu nguy cơ
đảo ngược dòng vốn 74
3.4.1 Chính sách an toàn tài chính 74
3.4.2 Nội dung của chính sách an toàn tài chính trong quá trình hội nhập 74
3.4.3 Chính sách an toàn tài chính đối với các đònh chế tài chính Việt Nam trong quá
trình tự do hóa tài khoản vốn 76
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
tôi thực hiện đề tài “Tác động của dòng vốn và những giải pháp kiểm soát dòng
vốn tại Việt Nam trong quá trình hội nhập”
Quyết đònh thực hiện đề tài này, người viết chỉ mong muốn được giới thiệu một
số giải pháp thu hút dòng vốn vào tại các quốc gia đang phát triển điển hình, là láng
5

giềng gần gũi với Việt Nam, đồng thời phân tích một số kinh nghiệm quản lý dòng
vốn tại các quốc gia này so sánh với những biện pháp đang được thực hiện ở Việt
Nam. Trên cở sở đó, đề tài cũng đề xuất thêm những giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả kiểm soát dòng vốn tại Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích số liệu thực tế, phương pháp so sánh
tương quan, phương pháp duy vật biện chứng làm các phương pháp thực hiện chủ yếu.
Nội dung của đề tài bao gồm ba chương như sau:
Chương I: Dòng vốn và kinh nghiệm kiểm soát vốn ở một số nước đang phát triển.
Chương II: Vấn đề thực hiện kiểm soát vốn tại Việt Nam trong những năm qua.
Chương III: Kiểm soát dòng vốn để góp phần ổn đònh và phát triển nền kinh tế Việt
Nam trong quá trình hội nhập.


đảm).
7

Tuy nhiên, việc phân loại này còn tùy thuộc vào từng quốc gia. Nếu như Thái
Lan phân loại dòng vốn thành khoản vay dài hạn, FDI, FPI và loại đầu tư nước ngoài
khác (OFI – là tổng dòng vốn vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại và tài khoản
tiền gửi của những người không cư trú bằng bath), thì Malaysia lại phân loại dòng vốn
thành vốn vay dài hạn, FDI và OFI (bao gồm cả dòng vốn đầu tư gián tiếp và những
khoản nợ ngắn hạn bên ngoài của ngân hàng thương mại).…
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của dòng vốn quốc tế
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự luân chuyển của dòng vốn quốc tế, và vì thế
ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vốn. Khi mậu dòch tiến triển, chính phủ các nước có
thẩm quyền đối với dòng tiền lưu chuyển vào nước đó. Chẳng hạn như chính phủ một
nước có thể ấn đònh một loại thuế đặc biệt đánh trên thu nhập tích lũy của các nhà
đầu tư nội đòa đã đầu tư ở các thò trường nước ngoài. Một loại thuế như vậy có thể
ngăn chặn dân chúng chuyển vốn ra nước ngoài, và nhờ đó có thể làm tăng tài khoản
vốn nội đòa. Tuy nhiên các nước khác bò ảnh hưởng của thuế này có thể trả đũa bằng
cách áp dụng một loại thuế tương tự cho dân chúng nước họ. Kết quả là sự sút giảm
đầu tư nước ngoài của các nhà đầu tư đa quốc gia.
Sự luân chuyển vốn cũng chòu ảnh hưởng bởi các biện pháp kiểm soát vốn của
các nước. Việc áp dụng các biện pháp này nhằm đối phó với một sự yếu kém về cấu
trúc trong vò thế cán cân thanh toán của quốc gia. Ngay cả những nước như c, Đan
Mạch, Pháp, Na Uy có lúc cũng đã áp dụng biện pháp hạn chế chuyển nội tệ ra nước
ngoài, dù các năm gần đây đã trở nên thoáng hơn. Các nhà trung gian tài chính đang
mong chờ một ngày các hạn chế được nới lỏng để họ có thể cạnh tranh mãnh liệt hơn
trên cơ sở toàn cầu.
Kết cấu dân số cũng ảnh hưởng đến sự luân chuyển các dòng vốn. Trong thập
niên 1980, dân số Mỹ rất trẻ và nhìn chung những người trẻ cần nhiều vốn hơn là
cung cấp cho thò trường cơ bản. Sự thiếu hụt được trang trải bởi đầu tư không phải của
Mỹ trong các thò trường vốn Mỹ. Thời gian trôi qua, tuổi trung bình của dân số thành

lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nội đòa.
Trên phương diện toàn cầu, các dòng lưu chuyển vốn giúp phân bố có hiệu quả
và sử dụng tốt nhất các nguồn tiết kiệm thế giới. Không có các dòng vốn quốc tế, thì
không thể có sự cân bằng suất sinh lợi từ đầu tư giữa các nước, dẫn đến sự phân bổ
sai các nguồn lực: những dự án đầu tư có khả năng sinh lời cao ở một số nước có thể
không được thực hiện vì thiếu vốn, trong khi những dự án có sinh lợi thấp hơn ở những
nơi khác lại được cấp vốn. Luân chuyển vốn tự do làm cho lãi suất toàn cầu trở thành
chi phí sử dụng vốn và suất sinh lợi từ tiết kiệm tương xứng, chứ không phải lãi suất
quốc gia. Tiết kiệm và đầu tư sẽ cân xứng trong phạm vi toàn cầu hơn là trong phạm
vi quốc gia. Như vậy, trong tình huống lý tưởng, đầu tư sẽ được tái phân bổ hướng tới
9

những dự án sinh lời nhất trên cơ sở đã điều chỉnh rủi ro. Các dòng chảy vốn còn tạo
ra cơ hội cho các giao dòch tiêu dùng tương lai, đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế
và tối thiểu rủi ro…
Tuy nhiên thực tế không phải lúc nào cũng đơn giản như những gì các học thuyết
kinh tế chỉ ra. Trước hết, sự di chuyển vốn tự do không phải lúc nào cũng mang lại sự
phân phối tối ưu các nguồn lực, do các nhà đầu tư không thể đưa ra các quyết đònh
đầu tư hoàn toàn chính xác trong tình trạng thông tin không đầy đủ và thiếu cân xứng.
Tình trạng này cũng khiến cho họ không đánh giá được hết các rủi ro liên quan đến
các hoạt động của mình và do vậy, họ có xu hướng bắt chước theo những gì mà các
nhà đầu tư khác làm. Hiện tượng này được mô tả là “hành vi cư xử theo đám đông”.
Thứ hai là sự phát triển nhảy vọt trong lónh vực tài chính đã khiến các nhà đầu tư
có thể đầu tư vào bất kỳ một thò trường nước ngoài xa xôi nào hoặc rút vốn ra khỏi thò
trường đó một cách dễ dàng (điều này đặc biệt đúng với các trường hợp vốn ngắn
hạn). Kết quả là các dòng vốn có thể dễ dàng đổi chiều một cách bất ngờ với quy mô
lớn vượt ra ngoài tầm kiểm soát (hiện tượng đảo ngược dòng vốn), dẫn đến thực trạng
là: khi các dòng vốn đổ vào một quốc gia một cách quá mức, nó có xu hướng gây ra
tình trạng quá nóng cho nền kinh tế, làm cho các hoạt động đầu tư trở nên kém hiệu
quả, đi kèm là tình trạng “bong bóng” trong giá tài sản và lạm phát tăng cao, bên

hình thức và được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào bối cảnh kinh
tế và mục tiêu của chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia. Thực tế cho thấy, ở những
nước đang phát triển nếu thả lỏng dòng vốn vào sẽ phải đối mặt với áp lực đầu cơ gây
ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính tiền tệ, ngược lại nếu hạn chế hẳn thì sẽ bỏ qua
cơ hội tận dụng vốn quốc tế để phát triển kinh tế. Kiểm soát vốn là biện pháp hữu
hiệu, vừa cho phép vốn vào, tạo cơ hội hoàn thiện thò trường tiền tệ trong nước vừa
tránh được những tác động tiêu cực của vốn. Bởi lẽ kiểm soát vốn tạo ra một bức
tường bảo vệ nền kinh tế khỏi những bất ổn của các dòng vốn và ngăn chặn hiệu quả
việc đảo ngược dòng vốn đột ngột, vốn được coi là nguyên nhân chính gây ra những
bất ổn nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc gia.
Kiểm soát vốn có khả năng ngăn chặn sự lây lan của các bất ổn tài chính giữa
các quốc gia, đó là do các rào cản được thiết lập trong các giao dòch vốn có thể cách
ly một quốc gia khỏi những biến động từ các quốc gia khác. Điều này có ý nghóa quan
trọng khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển rất mạnh mẽ. Kiểm soát vốn cho
phép tiếp cận thường xuyên với các nguồn vốn quốc tế trong một phạm vi có thể
kiểm soát được, giúp chính phủ các nước hoàn thiện các chính sách quản lý vó mô và
tăng kinh nghiệm quản lý. Giới hạn vừa phải giao dòch tài khoản vốn có thể làm cho
nền kinh tế phát triển hơn bằng cách bù đắp cho sự bất hoàn hảo của thò trường tài
chính, bao gồm sự bất cân xứng về thông tin giữa các nhà đầu tư. Điều này có được là
do việc áp dụng các biện pháp kiểm soát trên các nguồn vốn quốc tế đã tạo ra một cơ
11

chế bảo hiểm mạnh mẽ hơn cho sự đầu tư được chấp thuận và tăng cường sự công
khai hóa về thông tin tài chính. Trong một cơ chế tỷ giá cố đònh hoặc được quản lý
chặt chẽ, kiểm soát vốn có thể giúp điều hòa các mục tiêu mâu thuẫn nhau trong các
chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia.
Ngoài ra, kiểm soát vốn còn tạo ra một cơ chế bảo hiểm ngoại hối ngầm để bảo
vệ sự ổn đònh tài chính – tiền tệ của một quốc gia khi phải tiếp xúc với những dòng
chảy vốn nóng, nhất là trong trường hợp dòng vào quá lớn làm tăng nguy cơ lạm phát
hoặc khi các ngân hàng hay các thành phần kinh tế trong nước rơi vào vò thế ngoại

%so với GDP
Nguồn tài trợ:
Dòng vốn cổ phần thuần
Dòng vốn FDI
Dòng vốn gián tiếp
Dòng nợ thuần
Nợ chính phủ
Ngân hàng thế giới
IMF
Khác
Nợ tư nhân
Nợ trung và dài hạn
Trái phiếu
Ngân hàng
Khác
Nợ ngắn hạn
Khoản mục cán cân
Thay đổi trong dự trữ
Khoản mục ghi nhớ
Viện trợ nước ngoài
Dòng vốn tư nhân (nợ+vốn cổ phần)
Dòng vốn chính phủ (viện trợ+nợ)
Tổng dòng vốn
-83,7
-1,4

193,7
171,1
22,6
105,3

39,7
52,4
-5,1
-63,6
-120,7
-16,6

26,7
205,5
60,9
266,5
-6,9
-0,1

194,4
181,7
12,6
13,8
13,7
8,8
-2,2
7,1
0,1
22,4
29,8
-5,1
-2,3
-22,3
-163,1
-38,1

0,4

179,4
175,0
4,4
-1,2
26,9
7,5
19,5
-0,1
-28,1
-5,3
12,2
-10,2
-7,3
-22,9
-119,0
-80,2

27,9
151,3
54,8
206,1
78,5
1,3

152,0
147,1
4,9
7,3

33,1
-6,6
-7,9
32,0
6,3
-276,0

34,3
200,2
28,0
228,2
Bảng 1.2: Dòng vốn tư nhân thuần vào các nước đang phát triển từ năm 1997-
2003 (tỷ USD)
Khu vực 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Đông Á và Thái Bình Dương
Châu Âu và Trung Á
Châu Mỹ Latinh và Caribbean
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Châu Phi Sub-Saharan
85,8
52,9
114,1
7,8
8,2
17,0
7,1
64,2
98,8
16,3

10,4
12,4
Nguồn: World Bank Debtor Reporting System and staff estimates - Global Development
Finance 2004
13
Hình 1.1: Dòng vốn tư nhân thuần đến các nước đang phát triển 1992-2003

Dòng vốn tư nhân
Dòng vốn chính thức
1992 1994 1996 1998 2000
Tỷ Đôla

Nguồn: World Bank Debtor Reporting – Global Development Finance 2004
Hình 1.2: Dòng vốn thuần đến các nước đang phát triển từ lónh vực tư nhân giai
đoạn 1995-2002

Nguồn: World Bank Debtor Reporting System and staff estimates – Global Development
Finance 2004
Những dấu hiệu khôi phục kinh tế toàn cầu ngày càng rõ ràng trong những năm
qua đã góp phần cải thiện môi trường bên ngoài của các nước đang phát triển. Tăng
trưởng kinh tế thế giới cao từ mức 1.8% năm 2002 lên 2.6% năm 2003. Dự báo sẽ lên
3.7% năm 2004. Chênh lệch lợi nhuận tăng và lãi suất giảm, đầu tư toàn cầu đang
được hồi phục mạnh đặt nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Việc khôi phục vốn đầu
tư này cũng chứng tỏ rằng việc nới lỏng các chính sách tài chính và tiền tệ đã tạo ra

14

những phản ứng mạnh ở những nước kinh tế phát triển, đặc biệt là Mỹ. Đó là nước mà
ngân sách dao động từ thặng dư tương đương với 1.6% GDP năm 2000 đến thâm hụt
4,6% GDP năm 2003. Lãi suất thấp của các nước phát triển đã hỗ trợ cho việc thúc


hoảng nợ, và tăng cường hiểu biết về những rủi ro vốn có khi có sự bất đồng nhất về
tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tương đối thấp và dần được ổn đònh.
Dòng vốn FDI dần được khôi phục song song với việc khôi phục kinh tế toàn
cầu, liên quan đến tự do hoá lónh vực dòch vụ ở các nước đang phát triển, việc khôi
phục lòng tin của các nhà đầu tư sau khi đã trải qua những cuộc khủng hoảng và sự
bảo đảm trước những rủi ro chính trò. Dòng vốn FPI vào các nước đang phát triển từ
con số 5 tỷ USD ở năm 2002 đã lên tới 14 tỷ USD trong năm 2003 do tăng trưởng kinh
tế được củng cố và thò trøng vốn được khôi phục trên toàn cầu. Tuy vậy dòng vốn
này vẫn còn tương đối ít ỏi nếu so với các dòng vốn khác do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân thuộc về sự yếu kém của thò trường chứng khoán tại các
nước đang phát triển cùng với cơ chế giám sát thiếu độ tin cậy.
Vốn ODA tăng lên 58 tỷ USD trong năm 2003, trong khi đó vốn cho vay không
ưu đãi song phương giảm từ 8,8 tỷ USD năm 2002 xuống còn 11,8 tỷ USD năm 2003.
Nhu cầu về vốn đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng tại các nước đang phát triển phần
nhiều chưa được đáp ứng. Thách thức lớn nhất của những nước đang phát triển là phải
chuyển những nhu cầu này thành những cơ hội đầu tư vững chắc, có khả năng tiếp
cận nguồn vốn của các nhà đầu tư đồng thời giải phóng tiềm lực vốn toàn cầu hướng
tới việc đáp ứng những yêu cầu trên.
1.4. KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT DÒNG VỐN TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐANG
PHÁT TRIỂN
1.4.1.Xu hướng dòng vốn và những nguyên nhân hình thành nên xu hướng này tại
một số quốc gia đang phát triển
Nhìn chung, trong những năm 1990-1994, phần lớn vốn đầu tư đều chảy vào
những nước đang phát triển ở Châu Á. Theo IMF (1995a), dòng vốn thuần đầu tư vào
các nước này lên đến 261 tỷ USD, cao hơn gấp đôi so với dòng vốn vào của cả thập
niên 80. Xấp xỉ chừng 50% tổng số dòng vốn vào của các nước đang phát triển. Có
thể nói những chỉ số phản ánh mức tăng trưởng kinh tế cùng với những triển vọng
phát triển đầy hứa hẹn tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á đã thu hút một
lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài vào những quốc gia này. Ở một số quốc gia điển

Vào năm 1990, tài khoản vãng lai thâm hụt trở lại do tăng tiền công trong nước,
đồng won tăng, kinh tế thế giới bò giảm sút. Thâm hụt tài khoản vãng lai tệ nhất vào
năm 1999, đến 8,7 tỷ USD gấp trên 4 lần mức thâm hụt của năm trước đó. Dự trữ
ngoại hối mà ngân hàng Hàn Quốc nắm giữ giảm đáng kể. Đương đầu với khó khăn
này, chính phủ Hàn Quốc lại một lần nữa tự do hoá tài khoản vốn bằng sửa đổi luật
quản lý ngoại hối (FEMA) vào năm 1991. Những giao đòch được xếp vào loại vốn vào
thì sẽ được tự do hoá trước tiên. Hệ thống danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu được

17
chấp nhận giao dòch tài khoản vãng lai. Các hạn chế về đầu tư trực tiếp của dân
không cư trú gần như hủy bỏ hoàn toàn (bắt đầu từ tháng 1 năm 1992). Những nhà
đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trực tiếp vào thò trường chứng khoán Hàn Quốc
(dù vẫn còn một số hạn chế).
Kết quả của biện pháp này là dòng vốn vào (chủ yếu dưới hình thức vốn gián
tiếp) bắt đầu tràn vào năm 1991. Dòng vốn vào thuần năm 1990 chỉ 1,3 tỷ USD nhưng
năm 1991 đã là 5,7 tỷ USD, và 9,6 tỷ USD năm 1993.
1.4.1.2.Thái Lan, Malaysia và Indonesia
Vì tiết kiệm nội đòa thấp nên những nước này cần có một số vốn nước ngoài lớn
để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp:
Hình 1.4: Xu hướng và thành phần dòng vốn vào Thái Lan Tỷ USD
Năm
Vay dài hạn
Tổng
FDI FPI
OFI


thu hút FDI từ bên ngoài vào trong những năm 1985-1987. Năm 1985 lúc đang
khuyến khích chuyển giao công nghệ cho những công ty trong nước thì chính phủ
Malaysia cho phép dân không cư trú sở hữu trên một nữa cổ phiếu của công ty được
cho là có công nghệ cao. Luật khuyến khích đầu tư năm 1986 đưa ra những nhân tố
khuyến khích đầu tư khác nhau về các lónh vực công nghiệp, nông nghiệp và du lòch.
Điều này rất có ý nghóa trong tiến trình đầu tư và tăng giới hạn % sở hữu các công ty
liên doanh mà dân không cư trú được phép. Kể từ năm 1987, dân không cư trú được
phép sở hữu hoàn toàn những công ty có xuất khẩu đầu ra tối thiểu là 80% và được
phép mua bất động sản vì mục đích kinh doanh bằng vốn đầu tư nước ngoài. Năm
1989 những công ty nước ngoài có thể phát hành trái phiếu công ty ở thò trường chứng
khoán trong nước. Cũng trong năm này, chính phủ Malaysia thông qua những pháp
chế để bảo vệ bản quyền cho dân không cư trú trong thời hạn 25 năm. Những biện
pháp này nhằm tăng vốn FDI từ ngoài vào hàng năm từ 0,7 tỷ USD năm 1988 đến 2,3
tỷ USD năm 1990 rồi 5,2 tỷ USD năm 1994.

19

Đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư khác:
Cùng với việc bãi bỏ những hạn chế thu hút vốn FDI, ba nước này cũng đẩy
mạnh việc tự do hoá giao dòch tài chính qua biên giới suốt thập niên 80 và đầu thập
niên 90 vì mục đích đa dạng hoá dòng vốn nước ngoài và khuyến khích phát triển thò
trường tài chính nội đòa.
Thái Lan bắt đầu tăng tự do hoá giao dòch tài chính qua biên giới giữa thập niên
80. Trong năm 1987, để đáp ứng những giới hạn sở hữu, thò trường chứng khoán Thái
Lan đã thiết lập một văn phòng ở nước ngoài để các nhà đầu tư nước ngoài có thể
mua bán chứng khoán. (Nhìn chung, các nhà đầu tư chỉ được nắm giữ 49% tổng số cổ
phần được niêm yết ở Thái Lan, những hạn chế này được thay đổi theo ngành. Ví dụ
đối với ngân hàng, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ 25% mà thôi). Các
công cụ thanh toán của Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BIBF) được tung ra vào
tháng 03/1993 với mong muốn giảm chi phí vay vốn nước ngoài thấp xuống và phát

soát vốn đầu tư trực tiếp của dân cư trú ở nước ngoài đã thay đổi từ hệ thống danh
mục hàng hoá cho phép nhập khẩu đến hệ thống danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu
vào tháng 2 năm 1994.
Để đối phó với những khiếu nại và áp lực bên ngoài yêu cầu chính phủ phải bãi
bỏû nhiều hạn chế hơn nữa, chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố một chương trình mới về
cải cách hệ thống ngoại hối vào tháng 12 năm 1994. Chương trình này nổ lực nhằm tự
do hoá hoàn toàn giao dòch tài khoản vốn, tài khoản vãng lai và phát triển một thò
trường ngoại hối trong nước có hiệu quả trong thời kỳ 5 năm được chia thành 3 giai
đoạn. Đây là một tiến trình tự do hoá dần dần, tốc độ tự do hoá thực tế phù hợp với
tình trạng kinh tế của nước nhà. Tập trung vào việc thông qua hệ thống danh mục
hàng hoá cấm nhập khẩu ở nhiều nơi hơn. Bãi bỏ những hạn chế dòng vốn ra được
cho là ưu thế hơn tự do hoá dòng vốn vào.
Thực hiện giai đoạn đầu của việc tự do hoá tài khoản vốn, chính phủ Hàn Quốc
tập trung vào việc bãi bỏ kiểm soát vốn vào tháng 2 năm 1995. Trước tiên bãi bỏ hạn
chế quỹ lương trong nước để đầu tư vào những công ty chứng khoán nước ngoài, đây
là lần đầu tiên dân cư trú được phép nắm giữ tài khoản tiền gửi đònh kỳ nước ngoài.
Đối với chính sách tiền tệ, dường như ngân hàng trung ương Hàn Quốc tích cực vô
hiệu hoá nhằm đối phó với những tác động của luồng vốn vào theo cung tiền. Sự can
thiệp vào thò trường ngoại hối làm tăng việc nắm giữ tài sản nước ngoài thông qua
ngân hàng trung ương và tăng cung tiền. Đó là mục tiêu trước mắt của chính sách tiền
tệ được giám sát một cách thận trọng nhất. Để cân đối việc gia tăng này, các nhà
chức trách tiền tệ cần phải có các thể chế tài chính để theo đuổi trái phiếu ổn đònh
hóa tiền tệ (MSBs). Kim (1991) đã tính được ngân hàng trung ương Hàn Quốc vô hiệu
hoá khoảng 90% tăng trưởng tài sản nước ngoài thuần suốt thập niên 90.
21
Hình 1.6 minh hoạ những thay đổi tài sản trong nước thuần (NDA) và tài sản
nước ngoài thuần (NFA) của ngân hàng trung ương Hàn Quốc từ năm 1986-1994. Đến
năm 1990, những con số này đã có sự thay đổi đáng kể ngay sau khi hệ thống tỷ giá
bình quân (MARS) được thông qua. Điều này ngụ ý rằng ngân hàng trung ương vẫn
can thiệp vào việc ổn đònh hoá hối suất nước ngoài. Từ năm 1992-1993, sự can thiệp

năng thu hút vốn đầu tư cần thiết để duy trì tỷ lệ đầu tư nội đòa cao. Tuy vậy, chính
phủ phải giữ ổn đònh tỷ giá bằng cách vô hiệu hoá tiền tệ để xoá bỏ thanh khoản tiền
mặt đang tăng do tài sản nước ngoài thuần của ngân hàng trung ương tăng do chính
phủ can thiệp vào thò trường ngoại hối. Từ tháng 11/1984, đồng bath có liên quan đến
rổ tiền tệ mà trước đây bò hạn chế theo đồng đôla. Thay đổi chế độ tỷ giá phần nào
phản ảnh tăng giá của đồng USD vào giữa thập niên 80. Mặc dù thành phần rổ tiền tệ
không công khai, những đồng tiền nào thuộc về đối tác thương mại chủ đạo của Thái
Lan thì có xu hướng nghiêng nặng hơn như Mỹ, Nhật và Đức.
Vào lúc 8:00 am của mỗi ngày giao dòch, quỹ bình ổn hối đoái (EEF) công bố tỷ
giá cơ bản bath – USD. EEF sẽ mua bán một lượng USD không giới hạn với các ngân
hàng thương mại theo dãi băng tỷ giá 0,02 và giữ tỷ giá này đến trưa. Vào buổi chiều
USD được mua chỉ ở thò trường ngoại hối liên ngân hàng. Theo cách lập tỷ giá cơ bản
mỗi ngày, EEF không liên quan gì đến tình trạng hiện hành, viễn cảnh tương lai của
xuất khẩu, nhập khẩu, lạm phát trong nước và phát triển những tiền tệ chủ đạo ở thò
trường ngoại hối quốc tế. Hầu hết các nhà quan sát đều dự đoán rằng cán cân tài
khoản vãng lai đóng một vai trò chủ đạo trong việc quyết đònh tỷ giá cơ bản. Điều
này chứng tỏ một thực tế tỷ giá tiền tệ rất ổn đònh kể từ cuối thập niên 80. Vì vậy,
suốt những năm 90-94, đồng bath tăng so với đồng đôla chỉ có 0,3% hàng năm. Mặc
dù thế thực tế ở tài khoản tổng vẫn có thặng dư lớn, có thể do vốn vào hơn là do bù
đắp thâm hụt tài khoản vãng lai.
Từ cuối thập niên 80 trở về sau, tăng tài sản nước ngoài thuần là nguồn tăng
chính của cung tiền. Thanh khoản tiền mặt một phần là nguyên nhân gây ra gia tăng
cầu tiền trong nước và tỷ lệ lạm phát nội đòa cao. CPI tăng từ 2,5% năm 1987 đến
5,9% năm 1990. Cầu nội đòa cao cũng góp phần làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng
lai, đến lượt cán cân tài khoản vãng lai tăng cầu về vốn ở Thái Lan (thâm hụt tài
23
khoản vãng lai tính bằng %GDP từ 0,7% năm 1987 đến 8,5% năm 1990. Mặc dù thâm
hụt này đôi khi cũng có thấp hơn, nhưng vẫn giữ mức trên 5% suốt cả thập niên 90).
Hình 1.7: Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền và tỷ lệ lạm phát ở Thái Lan.


Hình 1.8: Xu hướng lãi suất ở Thái Lan và Mỹ. Thái lan
Mỹ (lãi suất cục dự
trữ liên ban
g
)

Nguồn: Managing Foreign Capital Flows: The Experiences of Korea, ThaiLan,
Malaysia, Indonesia - Yung Chul Park và Chi-Young Song, tháng 5 năm 1996
Các hoạt động thường xuyên của thò trường mở rất cần thiết bởi vì chính sách
thắt chặt tiền tệ chỉ có hiệu quả trong việc kiểm soát tính thanh khoản và lãi suất
trong một thời gian ngắn bằng một chế độ tỷ giá cố đònh và một tài khoản vốn mở
rộng, như Thái Lan (Schadler, Carkovic, Bennet, and Kahn (1993)) kết quả lãi suất
nội đòa liên tục cao so với lãi suất của các nước công nghiệp trong thập niên 90 và
điều này đã khuyến khích đúng lúc đối với vốn bên ngoài vào (hình 1.7)
Việc can thiệp của chính phủ vào thò trường mua lại trái phiếu chính phủ và trái
phiếu của doanh nghiệp nhà nước và việc phát hành chứng khoán ngân hàng trung
ương là những công cụ chủ đạo của chính sách vô hiệu hoá tiền tệ. Vào năm 1979,
Thái Lan thiết lập một thò trường mua lại để khuyến khích phát triển thò trường tiền tệ
và cung cấp cho ngân hàng trung ương một vò trí mới dành cho các hoạt động thò
trường mở (xem Kittisrikangwan, Supapongse and Jantarangs (1994) để biết chi tiết
về thò trường mua lại của Thái Lan). Thực tế, các hoạt động của thò trường mở thông
qua thò trường mua lại ở Thái Lan chỉ có hiệu quả đối với thanh khoản trong thời gian
rất ngắn vì những người tham gia thích giao dòch có đáo hạn không quá 14 ngày.
Thái Lan quan tâm đến tự do dòng vốn ra hơn hạn chế dòng vốn vào. Từ năm
1990 đến 1994 Thái Lan chia làm 3 giai đoạn tự do hoá ngoại hối, và hầu như những
giới hạn về vốn ra đều được bãi bỏ. Trước đây kiểm soát vốn ra rất chặt chẽ và hầu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status