LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay doc - Pdf 11



LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt
động tín dụng của Ngân hàng thương
mại ở Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu.

Đầu tư sản xuất bù đắp cho những thiếu hụt của tiêu dùng, từ đó tăng số
lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và khuyến khích
sản xuất phát triển. Như vậy đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia.

để sử dụng trong đời sống và sản xuất sẽ thu hút bằng cách vay mượn, thuê quyền
sử dụng nguồn lực của khu vực dư thừa.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn, là quá trình chuyển nhượng tạm thời
về quyền sử dụng vốn giữa người cho vay và người đi vay. Quan hệ này được hình
thành và hoạt động hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian thoả thuận. Lãi vay là
chi phí cho việc sử dụng lượng vốn vay.
Đặc điểm của tín dụng là trong quá trình tín dụng không có sự vận động của
quyền sở hữu. Người đi vay chỉ được quyền sử dụng lượng vốn vay và cũng chỉ
phải trả chi phí cho việc sử dụng lượng vốn này.
Chức năng của tín dụng là cung cấp, điều phối và quản lý vốn trong nền kinh
tế. Cụ thể là:
- Huy động và tập trung vốn để cho vay: các bên của quản lý vay và đi vay
đều có thể là các doanh nghiệp, dân cư hay Chính phủ (tại từng thời điểm) thiếu hay
thừa vốn. Ngoài ra cung hoặc cầu cho vay còn có thể là sự gia tăng hay giảm thấp
mức cung tiền tệ.
- Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là việc đảm bảo tính hiệu quả và hợp
pháp của việc sử dụng vốn. Người đi vay sẽ phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
người cho vay nhằm đảm bảo vốn vay sẽ được sử dụng có hiệu quả và đúng với
mục đích ban đầu.
Vai trò của tín dụng rất quan trọng, hoạt động tín dụng tác động tới cả hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Đó là: - Làm quá trình sản xuất diễn ra một cách thường xuyên và ổn định.
- Tích tụ và tập trung vốn tạo ra sự phát triển kinh tế và hình thành nguồn
vốn.
- Về mặt xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
- Được sử dụng như một công cụ vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, điều chỉnh
cơ cấu thông qua điều chỉnh vốn, chống lạm phát ổn định tiền tệ (chính sách lãi
suất, cửa sổ chiết khấu).

đây là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc Nhà nước là người đại diện cho
việc thực hiện các khoản thu ngân sách Nhà nước.
- Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng giữa hai bên (ở hai hay nhiều quốc
gia) có nhu cầu đi vay và cho vay. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua Ngân
hàng theo thoả thuận. Đây là mối quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng,
hai bên cùng có lợi.
Qua các hình thức tín dụng ở trên, chúng ta có thể thấy tín dụng Ngân hàng
là hình thức tín dụng bao trùm và chủ chốt của mỗi quốc gia trên thế giới. Với
chuyên môn và nghiệp vụ tín dụng ngày càng cao, Ngân hàng luôn đáp ứng kịp thời
nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
ii. vai trò của tín dụng Ngân hàng
1. Tín dụng Ngân hàng góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu
thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong mỗi nền kinh tế thường xuyên có những khu vực kinh tế thừa vốn và
thiếu vốn. Vai trò của người dẫn vốn kà huy động để cho vay, do đó tín dụng Ngân
hàng được coi như là một công cụ để giải quyết cung cầu vốn tiền tệ thị trường.
Trong cơ chế thị trường với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, mật độ cạnh tranh rất
cao đặc biệt là trong lĩnh vực Ngân hàng, để tồn tại và phát triển các Ngân hàng
phải nỗ lực thực hiện thật tốt vai trò trung gian tài chính của mình. Các Ngân hàng phải dùng nhiều phương pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ
chức kinh tế, đồng thời tập trung cho vay có hiệu quả hệ thì mới thu được lợi nhuận
và mới có thể tồn tại được. Vô hình chung tín dụng Ngân hàng đã góp phần tích cực
vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều này vừa làm tăng khả năng
tích luỹ cơ bản của Ngân hàng vừa thúc đẩy quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế.
2. Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà doanh nghiệp luôn có khát vọng tối đa hoá lợi nhuận, muốn đạt
được điều này các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, khoa học công nghệ và

không cần phát hành thêm tiền mặt. Hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng thì càng
hạn chế được số lượng tiền trong thanh toán do Ngân hàng dùng biện pháp chuyển
khoản hay thẻ tín dụng… theo đó, phí cho lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế giảm
theo. Hơn nữa thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay, Ngân hàng đã thực
hiện biện pháp nghiệp vụ điều hoà vốn giữa các vùng, ngành, thành phần kinh tế,
góp phần quản lý lưu thông tiền tệ.
6. Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Qua việc cho vay và thu hồi vốn, Ngân hàng có thể kiểm tra, kiểm soát bằng
đồng tiền thông qua trung tâm tín dụng được tiến hành qua các giai đoạn.
Kiểm tra trước khi cho vay.
Kiểm tra việc thực hiện vay vốn trong quá trình sử dụng vốn.
Kiểm tra sau khi vay nhằm mục đích kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng với
mục đích cho vay vốn. Chương ii: hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
i. Ngân hàng thương mại Việt Nam – những vấn đề cơ bản về hoạt động tín
dụng.
1. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại.
a. Khái niệm
Ngân hàng thương mại được quan niệm là một tổ chức kinh doanh tiền têh
mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và phương tiện
thanh toán. Ngân hàng thương mại hoạt động đa dạng và phong phú như nhận tiền
gửi tiết kiệm cho vay ứng trước, dịch vụ chuyển tiền, các dịch vụ tài chính và tư
vấn dịch vụ ngoại hối.
Ngân hàng thương mại có vị trí kinh tế rất quan trọng bởi vì chúng hoạt động
như các trung gian tài chính giữa người như các trung gian tài chính giữa người gửi
và người vay. Chúng khuyến khích tiết kiện bằng các biện pháp thu hút và huy động

thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính
sách dự trữ quốc gia là đưa một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách
ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm. Các Ngân hàng
thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách này.
2. Các nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất, cho vay có kế hoạch có mục đích và hiệu quả kinh tế.
Đơn vị xin vay phải có kế hoạch và đơn xin vay gửi đến Ngân hàng, trong đó
phải nói rõ số lượng vốn cần vay, thời hạn vay vốn và mục đích sử dụng vốn vay.
Kế hoạch và đơn xin vay của các đơn vị phải xuất phát từ nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh tiêu thụ sản phẩm dựa trên các định mức kinh tế, kỹ thuật lao động tiền
lương… Trên cơ sở kế hoạch xin vay của các đơn vị, Ngân hàng phải có kế hoạch
cho vốn của mình.
Thứ hai, cho vay phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn lẫn lãi. Đơn vị vay vốn
phải trả lại vốn vay cho Ngân hàng bởi vì nguồn vốn đó Ngân hàng cũng phải đi vay. Đơn vị vay cũng phải trả lợi tức cho Ngân hàng vì đó là một trong những
khoản thu nhập của Ngân hàng, tạo điều kiện cho Ngân hàng tổ chức hạch toán ks
và thực hiện nghĩa vụ của mình với ngân sách Nhà nước.
Thứ ba: cho vay có giá trị hàng hoá tương đương bảo đảm.
Để vay vốn ở Ngân hàng đơn vị vay vốn phải xuất trình các chứng từ hoá
đơn về mua, bán vật tư hàng hoá các hợp đồng kinh tế mua, bán vật tư hàng hoá các
hợp đồng kinh tế về mua, bán vật tư hàng hoá và công tác phục vụ. Trên cơ sở đó
các Ngân hàng sẽ tiến hành xét duyệt cho vay một lượng tiền tương đương với giá
trị vật tư hàng hoá. Với một số đơn vị Ngân hàng yêu cầu phải có thế chấp bằng tài
sản hoặc bằng các chứng từ có giá trị.
Trong quá trình sử dụng vốn vay, các đơn vị vay vốn cũng luôn luôn phải có
đủ giá trị vật tư hàng hoá bảo đảmvà nếu như cac bộ tín dụng kiểm tra thấy giá trị
vật tư hàng hoá nhỏ hơn vốn vay Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ thu hồi vốn trước hạn
đối với phần vốn không có giá trị vật tư hàng hoá bảo đảm. Trường hợp ngược lại

Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sau khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính,
cũng như tính chất hợp lý của dự ná về khía cạnh tài chính sẽ quyết định cho vay
hay không cho vay.
- Tín dụng thuê mua: doanh nghiệp được đáp ứng một phần hoặc tất cả nhu
cầu tín dụng trung hạn của họ bằng thuê mua các tài sản cố định. Họ “vay tài sản”
hơn là vay tiền để mua tài sản. Ngân hàng sẽ là người góp phần trực tiếp cho việc
tài trợ vào hoạt động thuê mua, thực hiện dịch vụ thuê mua đối với doanh nghiệp.
Vì vậy có thể xem dịch vụ thuê mua tài sản được Ngân hàng thực hiện như một
hình thức tín dụng trung và dài hạn.
- Cho vay tài trợ và uỷ thác: Ngân hàng nhận được những nguồn tài trợ và uỷ
thác của các tổ chức trong và ngoài nước để tiến hành cho vay tài trợ và uỷ thác của
các dự án phát triển theo mục đích của tổ chức tài trợ theo chương trình tín dụng
bằng nguồn vốn nước ngoài. iii. thực trạng hoạt động tín dụng ở sở giáo dịch Ngân hàng công thương
Việt Nam.
Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam được thành năm 1988, có trụ
sở tại số 10 Lê Lai trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sở có chức năng
chỉ đạo điều hành tổ chức và hoạt động kinh doanh cảu toàn hệ thống Ngân hàng
Công thương. Ngoài ra Sở còn trực tiếp tham gia kinh doanh, làm đầu mối thanh
toán trong nước và quốc tế. Quan trọng hơn Sở còn là nơi thử nghiệm các cơ chế
chính sách mới để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống.
1. Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương
Việt Nam.
- Với phương châm “coi nguồn vốn trong nước là chủ yếu nguồn vốn nước
ngoài là quan trọng” Sở giao dịch đã chủ động đa dạng hoá, thay đổi cơ cấu nguồn
vốn huy động cho phù hợp với nền kinh tế. Sở đã dùng nhiều biện pháp để thu hút
tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn cả về nội và ngoại tệ từ các thành phần kinh tế cả
trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Thực hiện nhiều biện pháp để thu hút lượng

giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam đều có chiều hướng tốt. Qua 3 năm
19996, 1997, 1998 tình hình tín dụng nhìn chung đều tăng, sở giao dịch đã nâng cao
hệ số sử dụng vốn với mục tiêu đa dạng, an toàn, hiệu quả. Đặc biệt là trong năm
1999 tổng dư nợ tín dụng đạt 906.013 triệu đồng tăng 22,09% so với năm 1998 đáp
ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, cho vay sản
xuất thu mua hàng xuất khẩu, đồng thời tăng cường cho vay trung và dài hạn đáp
ứng nhu cầu đổi mới, hiện đại hoá doanh nghiệp.
Qua bảng 2 cho ta thấy, tổng dư nợ tín dụng không ngừnh theo thời gian.
Năm 1997 tổng dư nợ tín dụng là 699.476 triệu đồng, năm 1998 đạt 742.113 triệu
đồng và trong năm 1999 đạt 906.013 triệu đồng. Cơ cấu tín dụng cũng từng bước
chuyển dịch phù hợp với sự phát triển của đất nước. Nhìn chung, dư nợ ngắn hạn năm 1997 là 527.177 triệu đồng đến năm 1999 đạt 618.337 triệu đồng tăng 19,21%
so với năm trước. Tín dụng trung và dài hạn cũng đạt kết quả khả quan, năm 1997
đạt 138.293 triệu đồng, năm 1998 đạt 130.318 triệu đồng (giảm so với năm trước
5,77%) nhưng đến năm 1999 đạt mức 244.011 triệu đồng (tăng 87,24% so với năm
1998).
Như vậy cơ cấu tín dụng Sở giao dịch đã từng bước chuyển dịch theo chiến
lược phát triển kinh tế thủ đô. Và vì mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Sở giao dịch đã chủ động và khai thác, bổ sung
các nguồn vốn cho nền kinh tế với mục tiêu “đầu tư theo chiều sâu cho doanh
nghiệp cũng chính là đầu tư cho tương lai ngành Ngân hàng).
Phân loại tín dụng bằng tiền đồng và bằng ngoại tệ ta thấy, năm 1996, 1997
dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ quy đổi ra VND tăng (đạt 278.972 triệu đồng vào năm
1997) nhưng đến năm 1998 hầu như đã chững lại, giảm xuống còn 278.591 triệu
đồng nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam á
làm cho giá USD tăng cao so với các đồng tiền tệ khác trong khu vực làm cho các
doanh nghiệp lo lắng nếu vay bằng ngoại tệ ở thời điểm này thì trong tương lai họ
sẽ phải trả một lượng ngoại tệ lớn. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ở Sở

Hai là, một số doanh nghiệp phàn nàn đối với các Ngân hàng thương mại
quốc doanh, là thời gian xét duyệt một công trình còn quá kéo dài, thủ tục rườm rà
vì có quá nhiều tờ, biểu mẫu, đồng thời có nhiều quy định của các cấp liên quan
chưa được đồng bộ. Những quy định do Ngân hàng cấp trên ban hành, Sở và các chi
nhánh buộc phải thực hiện và chỉ được giải quyết những vụ việc trong thẩm quyền
cho phép do đó làm cán bộ tín dụng mất nhiều thời gian làm cho doanh nghiệp vay
vốn chán nản. Vì vấn đề này mà nhiều doanh nghiệp đã bỏ Ngân hàng để đi tìm sự
cứu trợ khác kể cả Ngân hàng nước ngoài làm giảm khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại quốc doanh.
Ba là, sau khi có Nghị định 49/CP của Chính phủ quy định về việc mà căn cứ
vào kết quả sản xuất kinh doanh, Ngân hàng lại vấp vào một khó khăn mới - đó là
vấn đề an toàn vốn. Nhìn chung đây là một quyết định đúng đắn nhămf loại bỏ
những quy định chồng chéo, thủ tục không cần thiết về quy chế thế chấp tài sản.
Nhưng thực hiện nghị định này, có nghĩa là Ngân hàng hoàn toàn phải chịu tổn thất
nếu như dự án đầu tư không có hiệu quả do nguyên nhân khách quan của nền kinh
tế và nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh tế, không phải
mọi dự án đều được thực hiện đúng dự toán, khi dự án thất bại sẽ có nhiều câu hỏi
đặt ra cho người vay vốn và người cho vay vốn và người cho vay từ phía pháp luật
cũng như công chúng và giả sử không có nghi ngờ về “động cơ mờ ám”; “tư túi” thì
cũng dễ dàng bị quy tội “thiếu tinh thần trách nhiệm”. Do đó điều này gây tâm lý sợ
sệt cho Ngân hàng khi cho vay vốn. Bốn là, hầu hết các dự án vay vốn đều bị gò ép thời gian và hiệu quả kinh tế
trên giấy tờ để được Ngân hàng cho vay vốn, nhưng trên thực tế thì kết quả sản xuất
kinh doanh có thể sẽ không đạt được như ý muốn, làm nảy sinh ra tình trạng nợ quá
hạn. Mặt khác, một số khách hàng đã sử dụng vốn vay sai mục đích, chiếm dụng
vốn lưu động để xây dựng cơ bản và đầu tư tài sản cố định do đó khi hết thời hạn
vốn lưu động, doanh nghiệp không trả được nợ và sau đó Ngân hàng lại phải cho
các doanh nghiệp tiếp tục vay vốn trung và dài hạn. Chính vì vậy mà chất lượng tín

hiểu bạn hàng của mình, trong đó việc xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp
hết sức quan trọng vì đây là nhân tố quan trọng quyết định việc Ngân hàng có thu
được nợ hay không. Khả năng tài chính của doanh nghiệp biểu hiện qua vốn cố
định, vốn lưu động, mà hơn nữa, Ngân hàng còn phải biết được năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp và triển vọng của
doanh nghiệp trong tương lai. Đối với trường hợp doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng
để quan hệ bên thư ba thì Ngân hàng phải xem xét mức độ phù hợp, hợp lý cũng
như tính đúng đắn của hợp đồng kinh doanh này đề phòng trường hợp bên đi vay bị
bên thứ ba lừa và nếu bên đi vay không trả được nợ do bị lừa thì Ngân hàng là
người thiệt hại trước tiên. Chính vì vậy đòi hỏi Ngân hàng cần phải phân tích hoạt
động của doanh nghiệp qua tài liệu hạch toán, đồng thời cũng qua khảo sát thực tế,
qua thăm dò doanh nghiệp qua các tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp có quan hệ mua
bán, hợp tác.

b. Về vấn đề lưu trữ hồ sơ khách hàng. Việc lưu trữ hồ sơ khách hàng trong suốt quá trình thực hiện khoản vay là rất
cần thiết, điều này sẽ giúp cho cán bộ tín dụng dễ dàng đánh giá một cách chính xác
khả năng hoàn trả nợ, lãi Ngân hàng. Song trên thực tế là đa số công việc này đều
được giao cho cán bộ tín dụng quản lý và ghi chép bằng tay mặc dù nhiều hoạt động
trong các Ngân hàng đã được vi tính hoá do đó nên đưa những hồ sơ lưu trữ vào bộ
nhớ máy tính và có chương trình tính toán thích hợp để đánh giá chính xác khả năng
hoàn trả nợ, lãi đồng thời thuận lợi cho công việc bảo quản.
c. Về việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Hoạt động tín dụng là công tác rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng, nó quyết định việc Ngân hàng đó hoạt động có hiệu quả hay không?
Công tác này lại càng đặc biệt quan trọng đối với nghiệp vụ cho vay trung và dài
hạn (nghiệp vụ có tính rủi ro cao) do đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải vận dụng kiến
thức tổng hợp về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học Ngân hàng để

-Về phía Ngân hàng: Công tác thẩm định chưa tốt, chưa thực hiện được vai
trò tư vấn của mình đối với doanh nghiệp dẫn đến công trình, dự án đầu tư không có
hiệu quả nên nợ quá hạn tăng.
3. Mở rộng đầu tư với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế nước ta kinh tế quốc doanh vẫn là thành phần kinh tế đóng
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và cần được chú trọng đầu tư thích đáng. Thực tế
kinh tế quốc doanh đã được Nhà nước rất ưu ái với hàng loạt những chính sách ưu
tiên mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nằm mơ cũng không có được. Tuy
nhiên trong những năm qua, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mặc dù chưa phát
triển nhưng vẫn đóng góp vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nền kinh tế hàng hoá
phát triển, cơ chế thị trường thực sự thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, ngày nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có mặt trên nhiều lĩnh vực
như: xây dựng lương thực thực phẩm, chế biến máy móc, cơ khí….
Theo thống kê, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 1997 tạo ra 57,9%
GDP, riêng lĩnh vực dịch vụ khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 75% tổng giá trị dịch vụ. Như vậy tỷ trọng cho vay thành phần kinh tế này của Ngân hàng vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của khu vực này, chính vì vậy, Ngân hàng
cần phải tiếp tục mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế này
vì việc này không những góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao hệ
số sử dụng vốn của Ngân hàng.
4. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế.
Mục tiêu của Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam trong năm tới
là tiếp tục nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn bằng cách đa dạng hoá hình
thức cho vay trung và dài hạn theo định hướng:
- Cho vay không phân biệt các thành phần kinh tế.
- Mở rộng cho vay đầu tư không chỉ trong phạm vi cải tiến kỹ thuật, mở rộng
sản xuất mà còn cho vay đầu tư thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài cho các

nhân viên marketing thu hút khách hàng cho Ngân hàng, đây là giải pháp có tầm
quan trọng đặc biệt trong xu thế phát triển mới của nền kinh tế đất nước. Do sự cạnh
tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại trong nước và đặc biệt là các Ngân
hàng thương mại nước ngoàim do đó đòi hỏi Sở giao dịch Ngân hàng Công thương
Việt Nam phải chú trọng đến công tác này. Nếu công tác này bị bỏ rơi thì không
những Ngân hàng không thu hút được lực lượng khách hàng mà còn khó có thể giữ
được những khách hàng cũ.
6. Cho vay đầy đủ kịp thời đối với các dự án có hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng cần tiến hành đầu tư dứt điểm cho từng dự án, từng công trình,
tránh tình trạng cho vay tràn lan, rải mành mành kéo dài. Công trình sau khi được
duyệt vay, Ngân hàng cần phát tiền vay theo đúng kế hoạch, tiến độ thi công đã đề
ra. Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay, Ngân hàng chú trọng đến những công
trình phục vụ cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, thực sự có hiệu quả, đảm bảo đầu tư
đúng mục đích, đúng kế hoạch và có khả năng thu hồi vốn nhanh. Việc đầu tư một cách đầy đủ kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
đưa dự án của doanh nghiệp vào thực thi đúng tiến độ, sớm đưa dự án vào sử dụng,
phát huy hiệu quả, đảm bảo trả đủ nợ và lãi Ngân hàng.
7. Ngân hàng nên thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư đối với các doanh
nghiệp.
Cho đến nay, hầu hết các doanh nghiệp của ta đều ít hiểu biết về lĩnh vực đầu
tư, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính vì vậy, đầu tư vào công trình
chưa thu được hiệu quả như mong muốn, rủi ro trong đầu tư còn nhiều. Để phổ biến
rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, chi nhánh nên có phòng tư vấn về đầu tư vào công
trình, cố vấn hướng dẫn các doanh nghiệp trong đầu tư, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của thị trường, đặc biệt là không mắc
những lầm lẫn trong quan hệ mua bán với các đối tác khác. Trong thời điểm hiện
nay, khi nền kinh tế đã phát triển hệ thống thông tin rộng khắp, mạng lưới tin học đã
đi sâu vào từng lĩnh vực, ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người

quyết, đó là: kết quả kiểm toán hàng năm khẳng định đơn vị hoạt động có hiệu quả,
trả nợ đúng hạn; thực hiện được nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước; và được cấp
vốn điều lệ. Nói cách khác đi là doanh nghiệp cần phải có số liệu trung thực và các
điều kiện tối thiểu để có thể xây dựng được dự án khả thi vàhiện thực hoá tính khả
thi của dự án. Quy định này đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp , đòi hỏi các nhà
quản lý doanh nghiệp phải lành mạnh hoá tài chính của đơn vị, thực sự chịu trách
nhiệm trước các số liệu báo cáo, xây dựng và tính toán hiệu quả của dự án và điều
hành thực thi dự án.
iii. Các vấn đề ở tầm vĩ mô về phía Ngân hàng Nhà nước.
Để phát huy, nâng cao hiệu quả của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương
Việt Nam trong việc cung cấp vốn trung và dài hạn cho sự phát triển nên kinh tế,
ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt
Nam, của khách hàng, còn có sự giúp đỡ hỗ trợ ở tầm vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng. Ngân hàng Nhà nước cần phải đệ trình Chính phủ
và nhanh chóng giải quyết những vấn đề ở tầm vĩ mô như:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, ổn định tương đối chính sách quản lý
kinh tế vĩ mô.
Trong những năm gần đây, công tác xây dựng luật, đặc biệt là Luật kinh tế ,
Luật công ty, Luật phá sản, Luật thương mại… và gần đây nhất là hai bộ luật về
Ngân hàng. Những vấn đề đặt ra là: cần phải nâng cao tính đồng bộ của hệ thống
pháp luật; đưa pháp luật vào đời sống của hoạt động kinh tế nâng cao tính đồng bộ
và ổn định của các văn bản dưới luật; và nâng cao hiệu lực pháp lý của pháp luật
cũng như nâng cao hiệu năng của các cơ quan hành pháp.
Có thể nói môi trường pháp lý ổn định, hệ thống chính sách phù hợp là điều
kiện tiên quyết cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay đang từng bước chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nhiều vấn đề cơ bản của nền kinh tế chưa được nghiên cứu kỹ. Do đó có
nhiều tác động khách quan và chủ quan làm cho hệ thống pháo luật nước ta chưa


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status