Báo cáo " Hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường - thực trạng và phương hướng hoàn thiện " - Pdf 11



xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 65

iệc nghiên cứu một cách toàn diện hệ
thống các văn bản pháp luật kinh tế, để có
một cái nhìn tổng thể về hệ thống pháp luật kinh
tế, nhận xét về các u điểm và nhợc điểm của
cả hệ thống và của từng văn bản, nhằm gợi mở
những vấn đề mới nảy sinh và đề xuất những
kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật này là
điều cần thiết.
Có thể phân chia hệ thống các văn bản pháp
luật kinh tế thành ba nhóm, đó là: Nhóm các
văn bản pháp luật về kinh tế và quản lí kinh tế,
nhóm các văn bản về tổ chức và hoạt động của
các doanh nghiệp và nhóm các văn bản phục vụ
việc tổ chức và quản lí nền kinh tế. Bài viết này chỉ
xin trình bày khái quát và những điểm mới của
những văn bản pháp luật kinh tế quan trọng nhất.
1. Những văn bản pháp luật cơ bản về
kinh tế và quản lí kinh tế
Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp của thời
kì đổi mới mạnh mẽ và toàn diện của nớc ta.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nớc về
việc xây dựng và tổ chức nền kinh tế thị trờng
nhiều thành phần theo định hớng XHCN đ

lao động nh việc làm, hợp đồng lao động, tiền
lơng, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, kỉ
luật lao động, an toàn - vệ sinh lao động, bảo
hiểm x hội, giải quyết tranh chấp lao động,
V

* Trờng đại học luật Hà Nội
TS. Trần Ngọc dũng * Xây dựng pháp luật
66 - Tạp chí luật học

quản lí nhà nớc về lao động Bộ luật lao động
thực sự là căn cứ pháp lí không thể thiếu để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ngời lao
động, của ngời sử dụng lao động, làm cho sức
lao động đợc sử dụng một cách có hiệu quả
nhất và ngày càng phát triển bền vững.
Vai trò và tầm quan trọng của đất đai trong
nền kinh tế thị trờng đ đợc thể hiện rõ trong
Luật đất đai (1993).Với sự phát triển và tăng
trởng thờng xuyên, liên tục của nền kinh tế,
các yếu tố liên quan đến đất đai đòi hỏi các quy
định về đất đai phải đợc sửa đổi, bổ sung một
cách kịp thời và thích hợp. Quốc hội đ thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
đất đai (2001). Luật đất đai đ có những quy
định khá đầy đủ, cụ thể về: Quản lí nhà nớc về
đất đai, chế độ sử dụng các loại đất, quyền và

các cá nhân, các doanh nghiệp khác hoặc cho
Nhà nớc thì đều phải bị xử lí một cách nghiêm
minh. Bộ luật hình sự (1999) là căn cứ pháp lí
quan trọng và cần thiết bảo đảm cho hoạt động
kinh tế đợc tiến hành một cách đúng đắn, bảo
đảm lợi ích của các bên.
Chơng XIV của Bộ luật hình sự đ quy
định về các tội xâm phạm sở hữu. Những hình
phạt rất nghiêm khắc đ đợc áp dụng để xử
phạt các tội nh lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ
trái phép tài sản, sử dụng trái phép tài sản, thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản của Nhà nớc.
Với những quy định rất rõ ràng, cụ thể,
trong Chơng XVI, Bộ luật hình sự đ quy định
những hình phạt đích đáng với các tội xâm
phạm trật tự quản lí kinh tế, trong đó có các tội
chỉ có trong nền kinh tế thị trờng. Ngoài ra, Bộ
luật hình sự còn quy định các hình phạt đối với
các tội phạm về môi trờng, thí dụ nh tội huỷ
hoại nguồn lợi thuỷ sản, tội huỷ hoại rừng
2. Những văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN, loại hình doanh nghiệp giữ vị trí
chủ đạo là doanh nghiệp nhà nớc. Theo Luật
doanh nghiệp nhà nớc (1995), doanh nghiệp
nhà nớc đợc phân thành hai loại: Doanh
nghiệp nhà nớc hoạt động kinh doanh và

chính của hợp tác x; hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản hợp tác x; quản lí nhà nớc đối với
hợp tác x
Các điều lệ mẫu của các hợp tác x là loại
nguồn luật đặc biệt, vì chúng là cơ sở, là khuôn
mẫu cho các hợp tác x xây dựng nên điều lệ
riêng của mỗi hợp tác x - văn bản bản pháp lí
điều chỉnh hoạt động kinh doanh hàng ngày của
các hợp tác x ở nớc ta. Bằng việc ban hành
các nghị định năm 1997, Chính phủ đ tạo ra cơ
sở pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động của sáu
loại hình hợp tác x. Luật hợp tác x và các điều
lệ mẫu của hợp tác x đ quy định các vấn đề
quan trọng của hợp tác x trong nền kinh tế thị
trờng, thể hiện sự hoà nhập của các hợp tác x
nớc ta với các hợp tác x trên thế giới.
Năm 1990, để tạo điều kiện cho nhiều loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
hình thành và phát triển, Nhà nớc ta đ ban
hành Luật công ti và Luật doanh nghiệp t
nhân. Trong hơn 10 năm qua, nền kinh tế của
nớc ta có nhiều biến đổi khả quan, nhu cầu hội
nhập ngày càng to lớn, pháp luật về các loại
hình doanh nghiệp ngày càng phải đợc bổ
sung, hoàn thiện và có tính tơng thích với pháp
luật của các nớc khác trên thế giới. Luật doanh
nghiệp (1999) đ thay thế cho Luật công ti và
Luật doanh nghiệp t nhân.
Luật doanh nghiệp có những quy định về
hai loại hình công ti mới, đó là công ti TNHH

nớc ngoài đầu t vào Việt Nam trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật Xây dựng pháp luật
68 - Tạp chí luật học

của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có
lợi. Nhà nớc ta bảo hộ quyền sở hữu đối với
vốn đầu t và các quyền lợi hợp pháp của nhà
đầu t nớc ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và thủ
tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu t
nớc ngoài đầu t vào Việt Nam. Luật đầu t
nớc ngoài cũng quy định các lĩnh vực và địa
bàn khuyến khích đầu t, các hình thức đầu t,
các biện pháp bảo đảm đầu t, quyền và nghĩa
vụ của nhà đầu t nớc ngoài và doanh nghiệp
có vốn đầu t nớc ngoài, quản lí nhà nớc về
đầu t nớc ngoài.
Theo Luật ngân hàng nhà nớc Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng (1997), Ngân hàng
nhà nớc thực hiện chức năng quản lí nhà nớc
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Các đạo luật
này đ thể hiện rõ chính sách của Nhà nớc ta
về xây dựng và hiện đại hoá các loại hình tổ
chức tín dụng ở Việt Nam.
Chính phủ cũng đ ban hành Nghị định số
16/2001- NĐ/CP về tổ chức và hoạt động của
công ti cho thuê tài chính.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động rất quan

biệt. Quan hệ này chủ yếu là nhằm mục đích
kinh doanh và có mục tiêu là lợi nhuận. Vì vậy,
nó cần phải đợc thể hiện dới hình thức đặc
biệt và có những chế tài đặc biệt bảo đảm việc
thi hành nó. Năm 1989, Hội đồng Nhà nớc đ
thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Để đáp ứng yêu cầu năng động, khẩn trơng
của các quá trình kinh tế, các tranh chấp kinh tế
cần phải đợc giải quyết một cách nhanh gọn,
thiết thực. Quốc hội đ thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án
nhân dân, thành lập toà kinh tế (1993) và Uỷ
ban thờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994). Với các
văn bản này, các tranh chấp xảy ra trong kinh
doanh đ đợc xử lí theo cách thức khác với
cách giải quyết các vụ kiện dân sự để giảm bớt
chi phí, rút ngắn thời gian xét xử, đạt đợc hiệu
quả cao hơn.
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trờng còn có cơ hội lựa chọn việc giải quyết
tranh chấp kinh tế một cách chủ động hơn,
nhanh gọn hơn, ít tốn kém về thời gian và chi
phí vật chất hơn đồng thời cũng kín đáo hơn
thông qua việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại
các trung tâm trọng tài phi Chính phủ. Nghị
định số116/CP (1990) của Chính phủ về việc xây dựng pháp luật

quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp và Nghị định số 79/2000 quy định
chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng.
Để đáp ứng những yêu cầu về những hình
thức thanh toán tài chính mới trong nền kinh tế
thị trờng, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đ ban
hành Pháp lệnh thơng phiếu (1999).
4. Nhận xét về pháp luật kinh tế trong nền
kinh tế thị trờng ở Việt Nam và kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống này
Trong những năm vừa qua, hệ thống các văn
bản pháp luật kinh tế đ góp phần đáng kể vào
việc hình thành cơ chế quản lí kinh tế mới, tạo
lập hành lang pháp lí thông thoáng, tạo điều
kiện cho sự phát triển năng động của các doanh
nghiệp. Hệ thống pháp luật này cũng góp phần
vào việc hình thành nhiều thành phần kinh tế mới,
thúc đẩy việc giao lu và phát triển kinh tế, mở
rộng thị trờng trong và ngoài nớc, ổn định và làm
lành mạnh hoá nền tài chính của đất nớc
Tuy vậy, hiện nay vẫn đang tồn tại thực
trạng là các văn bản pháp luật kinh tế hiện hành
vẫn cha hoàn chỉnh, cha đồng bộ, thiếu thống
nhất, mâu thuẫn giữa các văn bản, còn chung
chung còn nhiều điều bất cập, hạn chế quyền
chủ động và cha phát huy hết tiềm năng của
các chủ thể kinh doanh, cha đáp ứng những
yêu cầu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc.
Vì vậy, cần có những đổi mới mạnh mẽ và

đầy đủ và hoàn chỉnh về các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế thị trờng của nớc ta. Mặc dù
các loại hình doanh nghiệp kể trên có thể có
nhiều điểm khác nhau về quy mô, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, chế độ sở hữu tài sản, cơ chế
quản lí, nguồn vốn nhng tất cả chúng đều có
điểm chung, đó là hoạt động kinh doanh nhằm
mục tiêu lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế-x hội.
Trong nền kinh tế thị trờng, các loại hình
doanh nghiệp này đều cần có sự bình đẳng trớc
pháp luật, có quyền tự do kinh doanh và đều cần
đợc khuyến khích một cách thích đáng. Văn
kiện của đại hội Đảng lần thứ IX đ chỉ rõ "tiếp
tục phát huy những tác động tích cực của Luật
doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một luật áp
dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp
khác nhau thuộc các thành phần kinh tế".
(1)

Trong Bộ luật kinh doanh, các vấn đề nh
các nguyên tắc kinh doanh trong nền kinh tế thị
trờng, quyền tự do kinh doanh, cơ chế thành
lập, cơ cấu lại, giải thể, phá sản của các doanh
nghiệp có thể đợc quy định trong các chơng
chung. Còn những điểm đặc thù của từng loại
doanh nghiệp, các quyền và nghĩa vụ của từng
loại doanh nghiệp khác nhau thì có thể và sẽ
đợc quy định trong các chơng riêng. Trên thế
giới đ có một số nớc có đạo luật nh vậy, tuy
rằng nội dung của các quy định cha thực sự cụ

nhân có đăng kí kinh doanh thì sẽ loại bỏ hàng
loạt các chủ thể kinh tế khỏi lĩnh vực kí kết và
thực hiện các hợp đồng kinh tế, mặc dù mục đích
kí kết hợp đồng của các chủ thể này cũng là kinh
doanh và mu cầu lợi nhuận; thí dụ nh trờng
hợp các doanh nghiệp t nhân hoặc công ti hợp
danh, tổ hợp tác kí kết hợp đồng với nhau.
4. Cần xây dựng Luật về khuyến khích và
bảo đảm đầu t.
Hiện nay, các quy định về bảo đảm và
khuyến khích đầu t đang đợc quy định trong
ba văn bản pháp luật khác nhau. Điều đó dẫn
đến việc không nhất quán và rờm rà, có nhiều
mâu thuẫn giữa các hình thức khuyến khích đầu
t, gây ra sự bất hợp lí và bất bình đẳng giữa các
nhà đầu t. Khi đ nhất thể hoá các đạo luật đơn
hành về địa vị pháp lí của các loại hình doanh
nghiệp vào Bộ luật kinh doanh thì cũng cần tập
trung các quy định về bảo đảm và khuyến khích
đầu t vào trong một đạo luật. Đó là Luật
khuyến khích và bảo đảm đầu t. Trong đạo luật
này, cần có các chơng quy định chung về
chính sách bảo đảm và khuyến khích đầu t của
Nhà nớc. Đồng thời, cũng cần có các chơng xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 71

quy định riêng về một số đặc thù của ba loại

trọng tài.
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội cần ban hành
văn bản này để tăng tính hiệu quả của các phán
quyết của các trung tâm trọng tài phi Chính phủ
và khắc phục đợc mâu thuẫn hiện nay giữa việc
công nhận tính pháp lí của các phán quyết của
trọng tài nớc ngoài và không công nhận tính
pháp lí của các trung tâm trọng tài trong nớc.
7. Cần quy định đất đai có nhiều hình thức
sở hữu (sở hữu nhà nớc, sở hữu tập thể, sở
hữu t nhân).
Từ khi diễn ra quá trình đổi mới đến nay,
"nhu cầu" về bất động sản (nhà- đất) là rất lớn,
cần đợc thoả mn từ những nguồn "cung"
chính đáng và hợp pháp. Đất đai cần đợc coi là
loại hàng hoá có giá trị đặc biệt; Nhà nớc, các
tập thể, tổ chức và cá nhân cần đợc phép mua
bán đất trên thị trờng theo quy định của pháp
luật. Có nh vậy thì mới tạo điều kiện cho việc
hình thành thị trờng bất động sản và tránh thất
thu khoản thuế to lớn cho Nhà nớc. Chúng ta
nên nhớ lại rằng trớc khi có Hiến pháp 1980, ở
Việt Nam có bốn hình thức sở hữu đất đai khác
nhau và không phải vì thế mà Nhà nớc không
quản lí đợc đất đai. Mặt khác, hiện nay, trên
thế giới có trên 200 nớc mà hầu nh duy nhất
ở Việt Nam là đất đai chỉ thuộc quyền sở hữu
của Nhà nớc.
8. Cần xây dựng và ban hành Luật cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status