theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi của cá hô (catlocarpio siamensis) - Pdf 11

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
MÃ SỐ: 52620301
THEO DÕI MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN VÀ
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI CỦA
CÁ HÔ (Catlocarpio siamensis)
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Ts. PHẠM MINH THÀNH BÙI SƠN NÊN
Ths. ĐẶNG VĂN TRƯỜNG MSSV: 0853040072
Lớp: NTTS K3
Cần Thơ, 2012
2
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Hệ thống sông Mê Công được xem là một trong những hệ thống sông lớn nhất và
mầu mớ nhất Việt Nam. Nó cung cấp thực phẩm và sinh kế cho hàng triệu cư dân.
Sông Mê Công chứa đựng một trong những khu hệ cá phong phú và đa dạng nhất
trên thế giới. Có ít nhất 1.200 loài cá đang sống ở đây đại diện cho nhiều họ, trong
đó có 40 loài cá quan trọng và 3 loài liệt vào loài có nguy cơ tuyệt chủng hoặc nguy
cơ đặc biệt (MRC, 2005). Trong đó, cá Hô (Catlocarpio siamensis) là loài duy nhất
của giống Catlocarpio được Ủy hội sông Mê Công (MRC) xếp vào danh sách loài
cá sông quan trọng ở hạ lưu sông Mê Công cần được bảo vệ. Cá Hô là một loài cá
nổi bật bởi kích thước khá lớn, chất lượng thịt rất ngon, có giá trị kinh tế rất cao,
nhất là cá lớn.
Cá Hô được xem là loài cá lớn nhất trong họ Cá Chép (Cyprinidae), có thể dài đến
3m và nặng đến 300 kg. Cá Hô được xếp vào 1 trong 10 loài cá khổng lồ của sông
Mê Công bên cạnh cá Tra dầu, Vồ cờ…Tuy nhiên, số lượng cá Hô được đánh bắt

Theo Boulenger (1898), cá Hô được phân loại như sau:
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Cypriniformes
Họ: Cyprinidae
Giống: Catlocarpio
Loài: Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898
Tên tiếng Anh: Giant barb
2.1.2 Hình thái
Hình 2.1 Cá Hô
(Nguồn: www.bestfish4u.com)
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1982), cá Hô có đầu to, miệng
rộng và co duỗi được, lỗ mang rộng, màng mang phát triển. Phần trước thân có tiết
diện tròn, phần sau dẹp bên. Vảy tròn, to phủ khắp thân, phần lộ ra của vảy có hình
lục giác. Đường bên hoàn toàn chạy dài từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở
điểm giữa góc vi đuôi, phần sau đường bên nằm trên trục giữa thân. Vây lưng nằm
lệch về nữa sau của thân. Tia đơn vây lưng và vây hậu môn hóa xương không hoàn
5
toàn. Vây đuôi chẻ 2 rảnh sâu hơn 1/2 chiều dài của vây. Mặt lưng của thân và đầu
có màu xám đen và lợt dần xuống bụng, bụng có màu trắng bạc. Ở mặt bên và lưng
có sắc tố đen viền xung quanh phần lộ ra của vảy tạo thành hình mạng lưới. Phần
ngọn của các tia vi có màu đen.
Theo Mai Đình Yên (1992), cá Hô có thân thon dài, hơi hẹp hai bên. Đầu rộng.
Miệng ở đầu mõm, hàm kéo dài đến quá viền trước của mắt. Môi dưới rất dày.
Mõm hơi hếch lên, mặt lưng của đầu giữa mắt và mõm lõm xuống. Mắt to, không
có râu, vây lưng cao, tia đơn không hoá xương, gốc phủ vẩy nhỏ. Vây ngực, vây
bụng, vây hậu môn ngắn. Các vây màu đỏ có viền đen. Cá có kích thước lớn. Giá trị
kinh tế cao.
2.1.3 Phân bố
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1982), Cá Hô sống ở nước ngọt,

thức ăn nhất định được người ta gọi là “phổ thức ăn”. Có nhiều căn cứ làm cơ sở
cho những hình thức phân chia tính ăn của cá. Theo số loại thức ăn thì tính ăn của
cá có thể là đơn thực, có thể là hẹp thực, có thể là rộng thực. Tuy nhiên, hiện nay,
tính ăn của cá được chia theo các nhóm: cá ăn thực vật, cá ăn động vật và cá ăn tạp.
Theo MRC (2005), cá Hô thuộc loài ăn tạp, di chuyển chậm. Thức ăn phần chính là
những thủy sinh vật như tảo, động vật nhỏ, nhuyễn thể, giáp xác, giun, rong và trái
cây,… Thỉnh thoảng ăn cả cá con.
Cá Hô có miệng rất rộng, thuộc loại miệng trên, cá tìm thức ăn ở tầng mặt và tầng
giữa, bắt mồi chủ động và tầng số bắt mồi thấp (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009).
Cá Hô từ 1 - 30 ngày tuổi sử dụng được các loại thức ăn như: Tảo lục (Chlorophyta),
Moina, Artemia và thức ăn công nghiệp dạng viên mảnh (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009).
Trong nuôi thương phẩm có thể dùng thức ăn viên có hàm lượng đạm từ 25 - 30%
hoặc thức ăn tự chế gồm 50% cám và 50% bột cá. Khẩu phần ăn hàng ngày là 2 -
3% trọng lượng thân (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009).
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), sinh trưởng là sự gia tăng về
kích thước, về khối lượng cá theo thời gian, là kết quả của quá trình trao đổi chất.
Những loài cá khác nhau thì có tốc độ sinh trưởng khác nhau.
Sống trong điều kiện môi trường thuận lợi (nhất là dinh dưỡng) thì cá có tốc độ tăng
trưởng nhanh, đặc biệt quan trọng đối với cá trong những giai đoạn đầu của chu kỳ
sống. Thức ăn là cơ sở cung cấp vật chất dinh dưỡng cho cá, cần phải đáp ứng đủ về
chất và lượng theo nhu cầu dinh dưỡng thì cá mới duy trì nhịp điệu sinh trưởng tốt
(Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), cá Hô thuộc giai đoạn từ cá bột lên cá hương mất
khoảng 30 ngày, từ cá hương lên cá giống mất khoảng 60 ngày. Ấu trùng khi nở dài
khoảng 6 cm. Cá tăng trưởng từ 100 - 700 gram trong năm đầu và tăng đến 2kg vào
năm thứ nhì. Trong các điều kiện môi trường nhân tạo cá phải mất 7 năm để trưởng
thành.
7
Trích bởi Thi Thanh Vinh (2008), theo Potharos (1967) thì cá Hô là loài tăng trưởng

với nhiều loài khác thì loài này phải trải qua nhiều năm mới thành thục.
Cá thành thục sinh dục khi đạt trọng lượng 9 kg, tương ứng với tuổi thành thục là 7
tuổi. Đến mùa sinh sản cá di cư lên phần trung lưu sông để đẻ trứng. Cá có sức sinh
sản lớn. Ở những cá cái lớn số lượng có thể đạt 6 - 7 triệu trứng, trứng có màu vàng
nhạt hay nâu và lớn khoảng 1 mm, sau đó ngấm nước thành 3 mm. Số lượng trứng
8
tùy theo trọng lượng của cá (Bộ thủy sản, 1996). Cá Hô là loài cá đẻ trứng bán trôi
nổi, có đường kính trứng 0,09 - 1,17 mm, tương đương với một số loài thuộc họ cá
chép khác như cá ét mọi, cá mè hôi. Sau khi trương nước trứng nổi lơ lững trong
điều kiện có nước chảy nhẹ. Do đó có thể ấp trứng trong bình weise, trong bể
composite, bể vòng có kết hợp với sục khí, ở nhiệt độ 28 - 30
o
C trứng nở sau 12 –
12 giờ 30 phút (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009).
2.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.2.1 Nuôi vỗ
Nuôi vỗ cá bố mẹ là một khâu có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở vật chất có ý nghĩa
quyết định trong việc sinh sản nhân tạo. Sự phát dục của tuyến sinh dục có quan hệ
chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng. Kỹ thuật nuôi vỗ hợp lý sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
tỷ lệ thành thục, tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống của cá con.
Thức ăn có nguồn gốc động vật hay thực vật điều có các thành phần chính như
protid, lipid, carbohydrate, vitamin và chất khoáng. Thành phần và chất lượng thức
ăn khi nuôi vỗ cá có ý nghĩa quyết định đến sự thành thục của cá. Thức ăn là một
trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng và sinh sản cá. Các
chất dinh dưỡng được cung cấp từ thức ăn là nguồn năng lượng cho mọi hoạt động
sinh lý của cơ thể. Sự phát dục của tuyến sinh dục có quan hệ chặt chẽ với chế độ
dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc và chất lượng
thức ăn. Điều kiện dinh dưỡng không những có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thành thục
mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến sức sinh sản thực tế. Khi số lượng thức ăn đầy đủ
và chất lượng phù hợp là điều kiện tốt nhất cho quá trình thành thục sinh dục.

sản đối với cá cái là tiêm các hoạt chất hoặc hormone có khả năng trực tiếp hay gián
tiếp đưa đa số noãn bào chuyển sang giai đoạn chín và rụng trứng, trở nên cần thiết
để vượt qua những trở ngại kích thích cá đẻ (Đặng Văn Trường và ctv., 2011)
Tùy từng loài cá mà sử dụng loại hormon khác nhau để kết quả sinh sản đạt tỷ lệ
cao nhất. Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), đối với cá Hô, trong năm 2007 và 2008 thì
loại và liều lượng kích dục tố để kích thích sinh sản cá được thể hiện ở bảng 2.1 như
sau:
Bảng 2.1. Loại và liều lượng kích thích tố sinh sản cá Hô, thực hiện năm 2007 và 2008
Năm và loại kích thích tố
Liều sơ bộ/kg Liều quyết định/kg
Cá cái Cá đực Cá cái Cá đực
2007
Não thùy (mg)
HCG (UI)
1-2,5
500
3,5-4
2.000-4.000
1,75-2
1.000-2.000
Não thùy (mg)
LH-Rha (ug)
DOM (mg)
1,5-2,5
1,5-3
180-200
18-20
0,75
90-100
9-10

nước và vỡ ra. Quá trình vỡ hạt vỏ làm cho lớp tế bào chất vỏ tách làm đôi. Bên
trong chứa đầy chất dịch xuất hiện khe quanh noãn. Phần ngoài lớp vỏ, cùng với
một phần chất chứa của hạt vỏ gắn với màng noãn hoàng và màng phóng xạ tạo nên
màng thụ tinh. Phần trong của lớp vỏ đông đặc lại và hình thành một lớp vỏ mới của
trứng thụ tinh. Một phần chất chính của hạt vỏ tiếp tục hấp thụ nước làm cho xoang
quanh noãn tiếp tục lớn lên. Màng thụ tinh và xoang quanh noãn có vai trò ngăn cản
không cho các tinh trùng khác xâm nhập (Ginzburg, 1961).
Trong noãn bào có các không bào chứa một số chất đặc biệt mà sau khi thụ tinh các
chất này được tiết ra và thúc đẩy sự hút nước làm trứng trương lên (Sakun, 1960;
Zotin, 1961).
Sự hình thành xoang quanh noãn tạo một khoảng trống giữa màng trứng ở phía
ngoài và noãn hoàng bên trong để cho phôi phát triển sau này. Bên trong dịch
periviteline có áp suất thẩm thấu cao hơn để hấp thụ nước từ bên ngoài. Sự tăng
kích thước sau khi thụ tinh được nhiều tác giả cho là hiện tượng có lợi tạo khoảng
không gian cho phôi phát triển, giúp cho phôi cử động một cách tự do, tăng cường
sự xáo trộn chất dịch quanh noãn hoàng và cải thiện điều kiện trao đổi khí trong quá
trình phát triển (S. G. Soin,…). Lúc này màng trứng căng phồng giống như quả
bóng được bơm đầy hơi. Màng thụ tinh trở nên cứng lại và đóng vai trò bảo vệ cho
phôi phát triển sau này.
11
Quá trình cứng màng vỏ có thể do hoạt động của enzym gây cứng mà sự hoạt động
của enzym này cần phải có ion canxi (Zotin, 1958).
b. Giai đoạn II
Kiểu phân cắt ở hầu hết các loài cá nuôi là phân cắt đoạn noãn hoàng, còn gọi là
phân cắt không hoàn toàn. Trứng chứa một lượng noãn hoàng rất lớn để cung cấp
dinh dưỡng cho giai đoạn phát triển phôi và các giai đoạn đầu của hậu phôi (ấu thể).
Đầu tiên tế bào chất chỉ là một khối nhỏ ở cực động vật. Ngay sau khi kết thúc quá
trình hoạt hoá trứng, dần dần tế bào chất từ các khu vực ở phía cực động vật, kể cả
lượng tế bào chất chen lẫn trong noãn hoàng di chuyển về phía cực động vật. Phía
trên cực động vật, tế bào chất được tập chung lại hình thành đĩa phôi. Lúc đầu đĩa

e. Giai đoạn V
Ở cá basa sau 24 giờ, thân phôi tách khỏi túi noãn hoàng. Phôi bắt đầu cử động, uốn
éo từ bên này sang bên kia, xen lẫn là những động tác quay tròn. Ở nhiệt độ 28 – 30
o
C, sau khi thụ tinh 29 giờ, bắt đầu xuất hiện sắc tố đen (melanophore) trên vách túi
noãn hoàng.
f. Giai đoạn VI
Thời gian nở phụ thuộc vào nhiệt độ nước, trong phạm vi giới hạn nhiệt độ nước
tăng thì thời gian nở của cá bột ngắn lại. Mỗi loài cá có thời gian nở khác nhau.
2.2.4 Thời gian dinh dưỡng noãn hoàng của cá
Khi mới nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng do mẹ để lại. Thời gian này dài hay
ngắn khác nhau tùy loài và tùy nhiệt độ nước (Lê Như Xuân và ctv., 1994). Thời
gian này còn được gọi là thời kỳ dinh dưỡng tự cung cấp: Thủy sinh vật thuộc nhóm
này dinh dưỡng nhờ các chất dự trữ chứa sẵn trong cơ thể (noãn hoàng, chất mỡ,
chất đường) (Đặng Ngọc Thanh, 1974).
Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sống được bắt đầu khi trứng đã thụ tinh, tiến
hành phân cắt. Đặc trưng dinh dưỡng của cá ở giai đoạn này là dinh dưỡng bên
trong, có hệ số sử dụng năng lượng cao nhất ( tới hơn 50%) so với các giai đoạn
khác trong chu kỳ sống. Vật chất dinh dưỡng là noãn hoàng, có được là do cá mẹ để
lại từ trứng (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Giai đoạn phôi được chia làm 2 thời kỳ gồm: thời kỳ trứng và thời kỳ phôi tự do.
Thời kỳ trứng: phôi phát triển trong vỏ trứng. Thời gian cần thiết để hoàn thành thời
kỳ này khác nhau theo loài, khác nhau theo điều kiện sống (nhất là nhiệt độ) (Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Thời kỳ phôi tự do: phôi phát triển ngoài vỏ trứng, thường gọi là thời kỳ trứng đã
nở; được tính từ khi phôi thoát ra khỏi vỏ trứng (trứng nở) đến khi sử dụng hết noãn
hoàng. Noãn hoàng là nguồn vật chất dinh dưỡng chính cung cấp năng lượng cho
quá trình phát triển và được tiêu thụ chủ yếu ở thời kỳ này cho đến khi xuất hiện
phase hỗn dưỡng (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
2.2.5 Thời điểm cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài

Theo Huỳnh Hữu Ngãi (2009), mùa vụ sinh sản của cá Hô ngoài tự nhiên từ tháng 5
đến tháng 7. Nhưng trong điều kiện nhân tạo nuôi trong ao nước tĩnh, thì mùa vụ
sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 11, đó là do trong điều kiện nuôi cá được cho
ăn đầy đủ cả về chất và lượng, bố trí mật độ nuôi thích hợp và được chăm sóc kỹ về
các chế độ như thay nước, kích thích sự phát dục, quản lí môi trường,…
Bảng 2.2. Kết quả sinh sản nhân tạo cá Hô năm 2005, 2006, 2007 và 2008
Chỉ tiêu
Năm
2005 2006 2007 2008
Số cá cái tham gia sinh sản (con) 6 9 35 34
Số cá cái rụng trứng hoàn toàn (con)
hay (%)
4 (66,7) 6 (66,7) 22 (62,9) 27 (79,4)
Tr

ng
l
ượ
ng
c
á
đẻ
r
ó
c
(kg)
64
412,3
576,3
Tổng số trứng (trứng) 1.037.864 1.820.594 3.507.528 8.949.292

chuyển ra bể hoặc ao ương (Huỳnh Hữu Ngãi, 2009).
Cá Hô giữ địa vị quan trọng đối với nghề đánh cá ở Thái Lan, đã được sinh sản và
thả giống vào hồ (A.F. Poulsen, 2005). Ở Việt Nam, cá Hô có giá trị kinh tế rất cao,
được sản xuất giống thành công tại Viện NCNTTS II và Trung tâm giống Thuỷ sản
An Giang.
2.4 Một số chất kích thích sinh sản ở cá
Trong sản xuất giống thủy sản nói chung, sản xuất giống cá nói riêng, kích dục tố
được sử dụng thường xuyên và cho hiệu quả cao. Ngoài việc chủ động về thời gian,
thời điểm bố trí sinh sản, việc dùng kích dục tố còn kích thích cá đẻ đồng loạt, đẻ róc,
cho tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ nở, sức sinh sản tuyệt đối rất cao và hiệu quả
hơn nhiều so với việc không dùng kích dục tố. Tùy thuộc vào những loại cá khác
nhau mà sử dụng loại kích dục tố tương ứng.
2.4.1 LHRH_a (Luteotropin Hormon Releasing Hormon_analog)
Năm 1973, các nhà khoa học Trung Quốc đã tổng hợp một peptid gồm 10 amino
acid dưới tên thương mại là LRH_a hay LH-RH_a (Luteotropin Hormon Releasing
Hormon_analog) hoặc Ovaprim (Canada). Ngày nay, các chất tổng hợp có sự thay
thế amino acid tại một vài vị trí trên phân tử GnRH ít bị phân giải bởi các enzym và
do đó hoạt tính mạnh gấp trăm đến ngàn lần so với các chất tự nhiên. Ngoài việc
dùng các GnRH tiêm để kích thích cá đẻ trứng, các chất này còn có thể được cấy vào
cá ở những giai đoạn khác nhau kích thích tạo noãn hoàng, thành thục và cho chúng
đẻ đồng loạt
(Đặng Văn Trường và
ctv
, 2011).
LHRH_a là hormon nhân tạo. Loại hormon này có tác dụng như G
n
RH và được sử
dụng kèm với thụ thể nhân tạo kháng Dompamin là Domperidon. Domperidon là tên
hóa học của thụ thể nhân tạo, có tên thương mại phổ biến là Motilium. Ở nước ta,
LHRH_a và Motilium được sử dụng trong khoảng 20 năm gần đây, hiện nay được

Não thuỳ lấy từ cá thành thục tốt hơn não thuỳ lấy từ cá chưa thành thục hoặc thành
thục kém.
Não thuỳ cá cái có hoạt tính kích dục gấp 2 – 3 lần não thuỳ cá đực cùng loài.
Não thuỳ cá chép, cá trê mạnh gấp 1,5 – 2 lần não thuỳ cá mè, cá trắm và những loài
không đẻ được trong ao.
Não thuỳ cá rô phi không có tác dụng trên các loài cá nuôi ao.
Não thuỳ của những cá bố mẹ sau khi đã đẻ nhờ tiêm kích dục tố vẫn có hoạt tính cao
còn những loài tự đẻ thì không có hoạt tính.
Não thuỳ lấy từ cá có tuyến sinh dục thoái hóa, hoặc tuyến sinh dục đang teo lại vào
cuối vụ thì không có hoạt tính.
16
Đơn vị hoạt tính cũa não thuỳ
Đơn vị tính não thuỳ là: cái, mg và dose ( Dose là lượng não thuỳ dùng để tiêm cho
cá khi trọng lượng của cá bị lấy não bằng trọng lượng của cá được tiêm) ( Nguyễn
Tường Anh, 2005)
2.4.3. HCG (Human Chorionic Gonadotropin)
HCG có tên tiếng Việt là kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau thai, có
nguời gọi HCG là Prolan B (Tên viết từ chữ cái Producto Lobi Anterioris) được
Zondec và Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu của phụ nữ có thai
(Nguyễn Tường Anh, 2005). HCG được chiết suất từ nước tiểu người phụ nữ có
thai ở tháng thứ 3. Cao nhất là khi mang thai được 50 ngày, cơ thể bài tiết 60000
UI/24h. Morozova (1936) là người đầu tiên sử dụng HCG gây rụng trứng ở cá perca
pluviatilis (lúc ấy còn mang tên là Prolan B).
HCG là loài kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loài cá. Ngoài
các loài cá mè, cá trê, HCG còn có tác dụng gây rụng trứng cho các loài cá khác ở
nước ta như cá chày, cá vền, cá trôi…Ở nước ngoài, HCG còn được dùng cho cá
chình, cá nheo mang túi Ấn Độ, cá bơn, cá sóc, cá bống tượng. Thuốc được đóng
gói trong lọ thủy tinh với lượng chứa 5.000 UI hoặc 10.000 UI (UI viết tắt của chữ
đơn vị quốc tế - Unit International). Khi sử dụng cần pha với nước nấu chín hoặc
nước muối sinh lý nhưng tốt nhất là nước muối sinh lý. Tác dụng của HCG là kích

, Bleeker, 1850), kích thích tố được sử dụng là não thùy
kết hợp với LHRH_a. Đối với não thùy, liều lượng sử dụng cho cá cái ở liều sơ bộ
là 1 – 2,5 mg/kg; liều quyết định 3 – 7,05 mg/kg. Đối với LHRH_a tiêm ở liều
quyết định là 130 – 150 µg LHRH_a trộn tương ứng với 5 – 7,5 viên Motilium.
Kích dục tố dùng cho cá đực bằng 1/3 liều lượng của cá cái. Cá rụng trứng sau liều
tiêm quyết định từ 5 – 6 giờ.
Theo Huỳnh Hữu Ngãi và
ctv.
(2008), bước đầu sinh sản nhân tạo cá Bông Lau
(
Pangasius Krempfi
, Fang và Chaux, 1949), liều kích dục tố cho cá cái từ 6 – 7 liều
với kích thích tố là HCG. Liều dẫn là 500 UI/ kg, từ sơ bộ tăng từ từ lên, 800, 1000,
2000 và 3000 UI/ kg. Hai liều quyết định được sử dụng, liều 1 là 8000 UI/ kg, liều 2
là 6000 UI/ kg. Liều dẫn và liều sơ bộ mỗi liều các nhau 24 giờ, từ liều sơ bộ đến
liều quyết định cách nhau 7 giờ. Cá đực tiêm 1 liều cùng với thời gian tiêm liều
quyết định thứ nhất và bằng 1/3 liều tiêm cá cái. Sau khi tiêm liều quyết định thì 12
giờ trứng rụng. Tỷ lệ thụ tinh đạt từ 26 – 45%, tỷ lệ nở là 57%. Sau thời gian 24 giờ
thì trứng nở ở nhiệt độ 28 – 30
0
C.
Theo Đặng Văn Trường và
ctv.
(2008), nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Chạch Lấu
(
Mastacembelus favus
, Hora 1923), cá cái được tiêm 3 liều kích dục tố, mỗi liều
tiêm cách nhau 12 đến 24 giờ. Cá đực được tiêm 1 liều vào thời điểm tiêm liều
quyết định cho cá cái. Loại kích dục tố sử dụng là HCG. Liều tiêm là 5000 UI/ cá
cái. Sau 18 – 36 giờ cá rụng trứng. Trứng thụ tinh nở sau 55 giờ ở nhiệt độ nước

dụng gây chín và rụng trứng, liều lượng 2.000 UI/kg không gây chín và rụng trứng,
liều lượng cho kết quả tốt nhất là 1.500 UI/kg. Kết quả giữa 2 loại kích dục tố
LHRH_a + Motilium và HCG thì tỷ lệ cá đẻ ở kích dục tố 100 µg LHRH_a +
Motilium là tốt nhất. Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ cá nở tốt nhất là ở kích dục tố
1.500 UI HCG.
Theo Ngô Vương Hiếu Tính (2008), kích dục tố là HCG chưa cho kết quả gây rụng
trứng trong việc kích thích sinh sản nhân tạo cá Leo ở mức liều lượng là 2.000,
3.000, 4.000 UI/kg cá cái. Các mức liều lượng kích dục tố HCG (4.000 UI/kg) +
não thùy, LHRH_a (150 µg/kg) + Motilium hoặc não thùy (8, 9, 10 mg/kg) có thể
sử dụng để kích thích sinh sản cá Leo. Trong thí nghiệm này sử dụng kích dục tố là
não thùy cá Chép với liều lượng 10 mg/kg cho hiệu quả cao nhất với sức sinh sản
đạt 118.683 trứng/kg, tỷ lệ thụ tinh đạt 59,34% và tỷ lệ nở đạt 53,98%.
Theo Nguyễn Đức Tuân (2004), cá Lăng chấm
(Hemibagrus guttatus
, Lacepede,
1803), dùng các loại kích dục tố LHRH_a + Motilium, HCG, não thùy. Thực hiện
tiêm 2 lần cách nhau 23 – 25 giờ. Liều lượng tiêm cho cá đực bằng 1/3 cá cái. Liều
tiêm cho liều 1 bằng 1/5 tổng liều. Năm 2004, họ đã sử dụng công thức này và thử
nghiệm thêm công thức 20 µg LHRH_a + 6 viên Motilium/ kg cá cái để kích thích
cá bố mẹ sinh sản và đã 2 lần thu được tỷ lệ cá đẻ 100%, tỷ lệ thụ tinh trung bình
cao nhất là 84,70%, tỷ lệ nở cao nhất 72,47% và tỷ lệ dị hình thấp nhất 9,38%.
Năng suất cá bột cao nhất trong các lần cho đẻ là 2.690 cá bột/kg cá cái, thấp nhất là
69 cá bột/kg
19
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: đề tài được thực hiện từ tháng 02/2011 đến tháng 06/2012.
Địa điểm: tại Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam bộ, xã An Thái
Trung, Huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Cá có ngoại hình tốt, khỏe mạnh, không dị hình, trọng lượng từ 10 - 31 kg/con.
3.3.1.2 Chuẩn bị ao nuôi
Trước khi thả cá, ao nuôi được tát cạn nước, vét bớt bùn đáy, tu sửa bờ ao. Sau đó
bón vôi và cho nước vào ao.
Ao nuôi vỗ có diện tích 2.000 m
2
, sâu 1,5 m, lớp bùn đáy < 20 cm. Ao có hệ thống
cấp và thoát nước riêng biệt, luôn chủ động và không bị ô nhiễm.
3.3.1.3 Thả cá vào ao
Sau khi cho nước ra vào ao, khoảng 3 – 4 ngày thì tiến hành thả cá. Thả cá vào lúc
trời mát, thả từ từ xuống ao, tránh làm sốc cá.
Thả cá nuôi từ ngày 22/01/2012. Tổng số lượng đàn cá là 67 con (37 cá cái và 30 cá
đực).
3.3.1.4 Chăm sóc và quản lý cá bố mẹ
Cá bố mẹ được nuôi vỗ chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (nuôi vỗ tích cực): cho cá ăn thức ăn viên chứa 27% protein, khẩu phần
ăn cho cá bằng 2% khối lượng thân, ngày chia làm 2 lần, lúc 8 giờ sáng và 5 giờ
chiều. Sau thời gian nuôi 1 tháng kiểm tra sự thành thục của cá. Khi tuyến sinh dục
đạt đến giai đoạn III thì chuyển sang nuôi giai đoạn 2.
Giai đoạn 2 (nuôi vỗ thành thục): cho cá ăn giống như ở giai đoạn 1 nhưng khẩu
phần giảm 1/3 – 1/2. Ngoài ra còn bổ sung vitamin E vào thức ăn viên và cho cá ăn
thêm trái cây (ổi, mận, ) 1 lần/ngày lúc 5 giờ chiều.
3.3.1.5 Quản lý môi trường ao nuôi
Các chỉ tiêu môi trường nước được đo định kỳ. Nhiệt độ, ôxy và pH được đo 1 ngày
2 lần lúc 7 - 8 giờ sáng và 1 - 2 giờ chiều trong một ngày và kiểm tra liên tục trong
suốt quá trình thí nghiệm.
Giữ nước trong sạch bằng cách: không cho cá ăn thừa, vớt sạch rác và các loại tảo
nổi trôi trên mặt nước.
21
Mỗi tuần thay nước một lần bằng 20 - 30% lượng nước ao và thay đổi trước khi các

22
Bảng 3.2. Kích thích cá sinh sản bằng HCG + não thuỳ
Nghiệm thức
Liều lượng hormone
Não thuỳ (mg/ kg ♀) HCG (UI/ kg ♀)
Lần tiêm 1 Lần tiêm 2 Lần tiêm 1 Lần tiêm 2
1 2 4 500 4000
2 6 0 0 4500
Ghi chú: Liều lượng tiêm cho cá đực bằng ½ cho cá cái.
Cá sau khi tiêm kích dục tố được thả xuống bể, đực cái nhốt riêng. Kết hợp kích
thích nước (bơm nước mới, xả nước cũ).
Hình 3.2. Bể nhốt cá
Khoảng thời gian từ liều sơ bộ đến liều quyết định là 7-8 giờ. Sau thời gian tiêm lần
2 từ 6-8 giờ, tiến hành kiểm tra cá cái, khi thấy trứng đã rụng thì gây mê cá bằng
Ethylenglycolmonphenyl ether rồi tiến hành vuốt trứng và áp dụng phương pháp thụ
tinh nhân tạo.
Trước khi vuốt trứng, lấy tinh dịch cá đực pha với dung dịch nước muối sinh lí theo
tỉ lệ 3:1 rồi bảo quản ở nhiệt độ 4
o
C.
Hình 3.3. Phương pháp lấy tinh và vuốt trứng
Trứng cá Hô ngay sau khi được vuốt ra không để lẫn với nước rồi cho tinh dich cá
đực vào khuấy đều khoảng 30 giây rồi từ từ cho nước vào để trứng được thụ tinh.
23
3.3.4 Thu và phân tích mẫu
3.3.4.1 Thu và phân tích mẫu môi trường
Hàm lượng oxy (mg/lít): xác định bằng máy đo oxy tại ao nuôi vỗ cá bố mẹ, bể nhốt
cá và dụng cụ ấp trứng.
pH: xác định bằng bộ test pH tại bể nuôi vỗ, bể nhốt cá và dụng cụ ấp trứng.
Nhiệt độ (

Tổng số cá nở
x 100
Tổng số trứng thụ tinh
24
Tỷ lệ dị hình:
Tỷ lệ dị hình (%) =
Số cá dị hình
x 100
Số cá quan sát
Thời gian phát triển phôi của cá: tính từ khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở.
Các giai đoạn phát triển phôi:
Ngay sau khi trứng được thụ tinh, sự phát triển phôi được quan sát dưới kính hiển vi,
dưới vật kính 4x.
Hình 3.4. Trưng sau khi thụ tinh
Trứng được lấy từ bể ấp và thường xuyên thay đổi trứng (mỗi lần 10 trứng) để tránh
sai số.
Hình 3.5. Bể ấp
Trong quá trình theo dõi, sự chuyển đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đều
được quan sát chi tiết và chụp hình lại. Thời gian giữa 2 lần quan sát từ 5 – 10 phút
cho đến khi cá tiêu biến hết noãn hoàng.
Việc quan sát các giai đoạn phát triển của phôi được đánh giá trên cơ sở tham khảo
các tài liệu của các tác giả như: Thi Thanh Vinh (2008), Huỳnh Hữu Ngãi (2009).
Thời gian cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng: được tính sau khi cá nở đến khi noãn
hoàn được cá sử dụng hết hoàn toàn.
25
Lấy 30 cá mới nở cho vào khây chứa nước có sục khí nhẹ. Định kì thay nước và đo
nhiệt độ nước thường xuyên (2 lần/ ngày). Nước được thay bằng nguồn nước có
cùng nhiệt độ với nước trong khây.
Trong quá trình theo dõi sự tiêu biến noãn hoàng theo thời gian được quan sát dưới
kính hiển vi và kính lúp, có chụp hình. Thí nghiệm được kết thúc khi cá hết noãn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status