Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội - Pdf 11

Lời nói đầu
Tất cả các doanh nghiệp, dù kinh doanh trong bất cứ một lĩnh vực
nàocũng đều có một điểm chung, đó là khả năng gặp phải rủi ro. Không
một doanh nghiệp nào có thể luờng trước được các vẫn đề ngoài dự kiến
hay đoán trước được các sự cố. Việc duy nhất các doanh nghiệp có thể
làm là hạn chế các rủi ro cá thể xảy ra.
Đối với ngân hàng, là một loại doanh nghiệp kinh doanh một thứ
hàng hoá đặc biệt, tiền tệ, khả năng gặp phải các loại rủi ro lại càng cao.
Do vậy, vấn đề hạn chế rủi ro của ngân hàng thương mại lại càng được
quan tâm. Và trong đó, tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuân
nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động ngân hàng, đồng thời, đây
cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Trước tình hình đó, với những gì đã được học trên trường, cùng với
kiến thức có được trong đợt thực tập vừa qua tai ngân hàng TMCP Sài
Gòn – chi nhánh Hà Nội, em quyết định chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín
dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” để nghiên
cứu để qua đó nhận thức được tầm quan trọng trong quản trị rủi ro tín
dụng tại các NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Sài Gòn nói riêng.
Em xinh chân thành cảm ơn GS.TS Nguyễn Văn Nam đã hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu bài chuyên đề bao gồm ba phần chính:
Chương I: Tín dụng và rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
– Chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP
Sài Gòn và một số kiến nghị
1
Chương 1:
Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1 Tín dụng
1.1.1 Khái niệm chung về tín dụng

Trên thực tế, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân
hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt
động mang lại rủi ro cao nhất. Hình thức tín dụng truyền thống của ngân
hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp
khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu, sau đó mở rộng thành
nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng
các chứng khoán, bằng giấy tờ có giá, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không
cần thế chấp. Các NHTM hiện nay không ngừng đa dạng các hình thức
tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng.
Như vậy, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả
vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định giữa ngân hàng và các chủ thể
còn lại của nền kinh tế.
1.1.2 Phân loại
Có rất nhiều cách để phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu
của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số
cách phân loại:
Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành tín dụng ngắn, trung
và dài hạn.
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, vì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng
3
được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 1 năm, để
tài trợ cho tài sản lưu động.
Tín dụng trung hạn là những khoản vay thông thường từ 1 đến 5
năm, tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị…
Tín dụng dài hạn là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho
tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.

Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất
(từ quá trình kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Theo tài sản đảm bảo, tín dụng được chia thành tín dụng có và
không có tài sản đảm bảo.
Tín dụng có tài sản đảm bảo là việc ngân hàng cho khách hàng vay
vốn dựa trên cam kết người nhận tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả
nợ trong một số trường hợp.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách
hàng có uy tín, thường làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay
của các tổ chức lớn hay theo chỉ định của Chính phủ.
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay sản xuất – lưu thồng hàng hoá: Là loại cho vay nhằm cung
cấp cho các doanh nghiệp,hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ và cá nhân để trực
tiếp tiến hành sản xuất hàng hoá và kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Là hình thức cho vay hộ gia đình, cá nhân để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm, sửa chữa nhà và các tư liệu tiêu
dùng.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn được phân loại theo ngành kinh tế
5
(công, nông nghiệp…), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản
cố định), theo tính chất rủi ro của khoản tín dụng (tín dụng lành mạnh,
tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn có khả năng thu hồi, nợ quá hạn khó
đòi…).
Việc phân loại tín dụng cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh
lợi, gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo
đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.2.3 Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, kinh

vay.
1.2.4 Vai trò của tín dụng trong hoạt động ngân hàng
Nói đến vai trò của tín dụng tức nói đến sự tác động của nó đối với
nên kinh tế. Tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế, thể hiện ở một số mặt chủ yếu:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của phần lớn các ngân hàng thương
mại, thường chiếm tỷ trọng từ 60 – 70% lợi nhuận của ngân hàng. Do đó,
ngân hàng luôn tìm cách duy trì, mở rộng tín dụng thông qua việc đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ. Mặt khác, hoạt động tín dụng còn có tác
động đến những hoạt động kinh doanh khác hay uy tín nên ngân hàng
cũng phải quan tâm đến chất lượng tín dụng để tránh những ảnh hưởng
xấu. Như vậy, ngay đối với bản thân ngân hàng, tín dụng đã chiếm một
vai trò quan trọng, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tuy nhiên, đối với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng lại thể hiện một vai
trò rõ nét hơn.
Thứ nhất, với chức năng là một công cụ tài trợ, tín dụng góp phần
đáp ứng các nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh.
Ở bất kỳ doanh nghiệp hay cá nhân nào thì vấn đề thừa thiếu vốn
7
luôn luôn xảy ra. Thông qua tín dụng góp phần giúp doanh nghiệp có thể
tạo nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh để quy trình sản xuất
được diễn ra một cách liên tục.
Thứ 2, góp phần ổn định nền kinh tế và bình ổn giá cả
Với chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã
góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, nhất là
tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, qua đó làm giảm áp lực của lạm
phát, góp phần làm ổn đinh tiền tệ.
Mựat khác, do cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh… làm cho
sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hoá dịch vụ ngày càng

nhiên, để tránh các tác động xấu có thể xảy ra, ngân hàng cần xem xét,
đánh giá kỹ các rủi ro tiềm ẩn trước khi cấp tín dụng.
1.2 Rủi ro tín dụng và phân loại rủi ro tín dụng
Mọi hoạt động của từng cá nhân cũng như toàn xã hội đều hướng
tới một mục đích nào đó. Song có những trường hợp mục đích đó không
đạt được do trong quá trình hoạt động gặp phải rủi ro. Vậy rủi ro là gì?
Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như “rủi ro là những bất trắc gây ra mất
mát thiêt hại”; “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện
một biến cố không mong đợi”... Nhưng nói chung mọi ý kiến đều đi đến
khẳng định rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Rủi ro có thể
gặp bất cứ lúc nào ngoài ý muốn của con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế rủi ro được coi là những tổn thất mà các
doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh. Kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ – tín dụng ngân hàng cũng phải chấp nhận điều đó. Và thực tế đã
chứng minh rằng không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến
9
rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ.
Tóm lại: rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn của con
người. Trong kinh doanh rủi ro tồn tại khá phổ biến và rất phức tạp bởi
vì thực tiễn đã chứng minh rằng bất kì hoạt động kinh doanh nào đem lại
lợi nhuận đều có rủi ro, và rủi ro càng cao thì lợn nhuận ký vọng đạt
được càng lớn.
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt - tiền tệ, và
tài sản của ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính, do vậy, hoạt
động trong lĩnh vực ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro gây nên những
tổn thất không mong muốn. Những rủi ro chính mà các NHTM thường
phải đối mặt là:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro hối đoái

định cũng là chính xác, một phần là do khách hàng, một phần do ngân
hàng. Vì thế, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng
là không thể tránh khỏi, và là tất yếu khách quan. Nhiều quan điểm nhất
trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, chỉ có thể hạn
chế, không thể loại trừ.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Để có thể dễ dàng hơn trong việc quản lý, đo lường và phòng ngừa,
các NHTM đều phân loại rủi ro tín dụng theo các tiêu thức khác nhau.
Theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro tín dụng được chia thành rủi
ro theo các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Theo nguồn gốc hình thành , rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của
ngân hàng; việc nghiên cứu và dự báo; theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng;
cán bộ tín dụng; công tác kiểm tra, kiểm soát…
11
+ Rủi ro từ phía người vay: rủi ro đạo đức, rủi ro vì khả năng tài
chính yếu kém; biến động khả năng kinh doanh; vị trí của doanh nghiệp
thay đổi; mối quan hệ với đối tác…
+ Rủi ro từ nguyên nhân khác: vì khâu quản lý của ngân hàng
Nhà nước, chế độ chính sách, môi trường, biến động kinh tế…
1.2.3 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng
1.2.3.1 Hệ số thu nợ
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự an toàn của
đồng vốn khi cho vay. Hệ số này biểu hiện mối quan hệ giữa doanh số
thu nợ và doanh số cho vay. Nghĩa là trên 100 đồng vốn mà ngân hàng
cho vay thì sẽ có bao nhiêu đồng được thu hồi lại. Hệ số này càng lớn thì
độ an toàn càng cao và công tác thu nợ đang có sự chuyển biến tốt, rủi ro
tín dụng thấp.
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ = -------------------------------- * 100%

tác tín dụng được quan tâm đến đâu và ngân hàng cần sử dụng những
biện pháp nào để giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn trong kinh doanh tiếp theo.
Mặt khác, hệ số này còn cho biết nguồn vốn của ngân hàng cho vay đến
các cá nhân, các tổ chức kinh tế có phát huy được hiệu quả không?
Người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng
tín dụng. Do vậy việc xác lập một tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý là rất cần thiết,
theo tính toán hiện nay thì nợ quá hạn ở mức dưới 5% là có thể chấp
nhận được..
 Tỷ trọng nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ trọng nợ khó đòi = ---------------------------
Nợ quá hạn
13
Các tỷ lệ này càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao, ngân
hàng có nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được,
thậm chí nếu nghiêm trọng có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực của phá
sản.
1.2.4 Tác động của rủi ro tín dụng
1.1.4.1 Tác động của rủi ro tín dụng tới hoạt động của NHTM
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong
tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là
đã ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Những tác động có thể xảy đến trong
hoạt động của các NHTM khi rủi ro tín dụng xảy ra là:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có
một khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút
ngay, một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong
khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản
lý, giám sát phát sinh. Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn trở thành nợ
khó đòi hoặc nợ mất vốn, thì việc xử lý tài sản đảm bảo cũng luôn gặp
rất nhiều khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có

của Chính phủ, mà còn có thể gây nên cuộc khủng hoảng tài chính cho
cả nền kinh tế.
1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường,
người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân
hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác (hay còn gọi
là nguyên nhân bất khả kháng).
1.2.6.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao
gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non
15
kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả
năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác,
mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp ,dẫn đến chất lượng tín
dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo
đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay
không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất
vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém,
không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn
cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách
hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần
thiết.
Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu
sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải
ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết
định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ
là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp
tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản
nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ
mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát

nhóm này thành hai loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả
nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém
trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử
dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn
nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh
mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ
hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả
17
năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để
đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm
mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp
các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát
hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và
cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro
tiềm ẩn là rất cao.Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh
có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình chây ỳ
với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng
tốt.
1.2.6.3. Nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung
quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp
luật…
Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân
hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả
năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên
thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định
cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin
ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do

Ngân hàng TMCP Sài Gòn (tiền thân là Ngân hàng TMCP Quế Đô)
được thành lập vào năm 1992 theo Giấy phép hoạt động số 00018/NH –
GP, Giấy phép thành lập số 308/GP – UB, Đăng ký kinh doanh số
4103001562. Trải qua 10 năm hoạt động không hiệu quả, đến cuối năm
2002, Ngân hàng Quế Đô hoạt động trong tình trạng tài chính thua lỗ
trên 20 tỷ chưa có nguồn bù đắp, bộ máy quản trị điều hành suy sụp hoàn
toàn, khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ quá hạn hơn 20 tỷ không có
khả năng thu hồi; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì chế độ thanh
tra – giám sát thường xuyên và quy định hạn mức huy động chỉ 160 tỷ
đồng, hoạt động kinh doanh nghèo nàn, không có hệ thống quy trình quy
chế hoạt động nghiệp vụ, đội ngũ nhân sự yếu về trình độ chuyên môn…
Nhận thức rõ những khó khăn đó, khi tiếp nhận Ngân hàng, các cổ
đông mới đã tin tưởng giao phó cho Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám
đốc tiến hành các biện pháp cải cách toàn diện để giải quyết những mâu
thuẫn nội tại, kiện toàn bộ máy tổ chức, làm cơ sở để tháo gỡ những khó
khăn trong hoạt động.Nhờ đó, Ngân hàng TMCP Quế Đô chính thức
được NHNNVN cho phép đổi tênvà đi vào hoạt động với thương hiệu
mới: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB kể từ ngày 08/04/2003. Thương
hiệu này đã dần định hình và ngày càng chiếm được sự tin tưởng của
người dân và doanh nghiệp khắp cả nước.
Với quyết tâm đưa Ngân hàng đi lên, từ sự cố gắng phát triển kinh
20
doanh đầy hiệu quả trong năm 2003 SCB đã có những giải pháp rất thực
tế, mang ý nghĩa đột phá, nhằm lành mạnh hoa tình hình tài chính của
SCB, củng cố hệ thống quy trình, quy chế chuyên môn nghiệp vụ trong
toàn NHTM trên địa bàn TP.HCM. Đến thời điểm 30/09/2007, tổng tài
sản của SCB đạt 20.134,7 tỷ đồng, gấp hơn 1,8 lần so với năm 2006;
Tổng nguồn vốn huy động đạt 18.107,6 tỷ đồng, tăng 8.172,2 tỷ đồng
tương ứng 82,2% so với đầu năm; Tổng dư nợ tín dụng - đầu tư là
17.323 tỷ đồng, tăng 8.533 tỷ đồng tương ứng 97% so với cả năm 2006.

đại lí Swiftkey với 76 ngân hàng cùng 319 chi nhánh trực thuộc tại 59
nước trên thế giới, SCB đang khẳng định từng bước phát triển của mình.
Đặc biệt trong chính sách phát triển, SCB luôn chú trọng đào tạo đội
ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ. Vì vậy, với
đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, năng động đã đưa SCB từ một ngân hàng
có thứ hạng thấp lên đứng ở vị trí cao trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam.
2.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội được thành lập vào
tháng 04 năm 2005. Ngay từ khi thành lập, Chi nhánh Hà Nội đã được
phép thực hiện mọi hoạt động kinh doanh,được thực hiện nghiệp vụ
thanh toán trong và ngoài nước,tham gia các hoạt động mua bán ngoại tệ.
Chi nhánh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, đóng vai trò tạo lập vốn tập trung cho
vay các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh,cung cấp các loại
hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành
phần kinh tế trên địa bàn thủ đô.
Giấy phép thành lạp số 0113009192 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP
Hà Nội cấp ngày 04/10/2005
22
Hình thức sở hữu vốn: Cổ phần
Thành phần Ban Giám đốc
+ Ông Trần Minh Cương: Giám đốc
+ Bà Đoàn Thu Hương: Phó Giám đốc
Trụ sở chính: Số 4 Hồ Xuân Hương – P. Nguyễn Du – Q. Hai Bà
Trưng – Hà Nội
Số Phòng giao dịch: 06
Công ty con: 0
Tổng cán bộ công nhân viên: 90 người
2.1.3 Tình hình họat động của SCB – Chi nhánh Hà Nội trong giai

gần đây là rất cao, đặc biệt là nguồn vốn tăng lên từ huy động trong dân
cư và các tổ chức kinh tế. Điều này cho thấy, SCB chi nhánh HN đã tạo
được chỗ đứng trên thị trường các ngân hàng.
2.1.3.2 Hoạt động tín dụng
Hoà cùng nhịp phát triển chung của SCB, SCB chi nhánh Hà Nội dù
mới hoạt động trong thời gian ngắn nhưng vẫn nỗ lực không ngừng nâng
cao năng lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, hoàn thiện
quy trình ngiệp vụ cũng như quy trình quản lý.Bằng cách tung ra các sản
phẩm tín dụng hâp dẫn, linh hoạt, phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối
tượng cụ thể SCB đã cải thiện tình hình, nâng cao hiệu quả kinh doanh
tốc độ nhanh.
Tình hình sử dụng vốn của SCB Chi nhánh Hà Nội trong 2 năm gần
đây là:
Đơn vị: tỷ đồng
24
Chỉ tiêu 2007 2006
Cho vay các TCKT 615,176.00 354,052.00
Công ty cổ phần khác 438,952.00 270,651.00
Công ty TNHH tư nhân 176,224.00 83,401.00
Cho vay cá nhân 416,861.00 37,189.00
Cho vay khác 19,400.00 -
Tổng 1,051,437.00 391,242.00
Và tình hình chất lượng tín dụng các năm qua như sau:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu năm 2007 năm 2006
STĐ % STĐ %
Nợ đủ tiêu chuẩn 1,046,766 99.56 372,010 95.08
Nợ cần chú ý - 0.00 19,232 4.92
Nợ dưới tiêu chuẩn 2,833 0.27 - 0
Nợ nghi ngờ 1,838 0.17 - 0


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status