luận văn: nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân tộc thái hiện đại pot - Pdf 11


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: “nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân
tộc Thái hiện đại.”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Trang 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 9
3.1. Mục đích, đối tƣợng 9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Là một bộ phận hợp thành của nền văn học Việt Nam, thơ ca các dân tộc
thiểu số đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển chung của nền
thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều này đã đƣợc Nghị quyết Trung ƣơng V (khoá
VIII) đánh giá “văn học các dân tộc thiểu số có bƣớc tiến đáng kể. Đội ngũ
những nhà văn hoá ngƣời dân tộc thiểu số phát triển cả về số lƣợng lẫn chất
lƣợng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học
nghệ thuật”. Thực tế cho thấy, thơ ca các dân tộc thiểu số đã trở thành một
phần không thể thiếu đƣợc trong nền thơ ca dân tộc, và diện mạo của nền thơ
ca Việt Nam hiện đại chỉ có thể đƣợc nhìn nhận một cách trọn vẹn trong một
chỉnh thể thống nhất mà đa dạng, phong phú bao gồm trong đó có thơ ca các
dân tộc thiểu số.
Với nền tảng là kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng, các dân
tộc thiểu số đã xây dựng một nền văn học hiện đại đa sắc, đa màu, có nhiều
thành tựu cả về đội ngũ và tác phẩm. Nhiều dân tộc đã có những tác giả tiêu
biểu đại diện cho tiếng nói và bản sắc văn hoá của dân tộc mình nhƣ: dân tộc
Dao có Bàn Tài Đoàn, Triệu Kim Văn ; dân tộc Tày có Nông Quốc Chấn, Y
Phƣơng, Dƣơng Thuấn ; dân tộc Thái có Cầm Biêu, La Quán Miên, Lò Cao
Nhum ; dân tộc Giáy có Lò Ngân Sủn ; dân tộc Mông có Ma A Lềnh, Mùa
A Sấu; dân tộc PaDí có Pờ Sảo Mìn… ; dân tộc Mƣờng có Vƣơng Anh, Đinh
Lăng Lƣợng ; dân tộc Chăm có Inrasara
Là một thành viên của đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam, dân tộc Thái
có địa bàn cƣ trú chính ở vùng thƣợng lƣu sông Thao (nậm Tào), sông Đà

Việt Nam hiện đại nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng. Theo khảo
sát của chúng tôi, số lƣợng các nhà văn, nhà thơ dân tộc Thái đông thứ hai
trong số các nhà thơ, nhà văn ngƣời dân tộc thiểu số (sau dân tộc Tày). Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
nhiều cây bút đã gắn liền với sự hình thành và phát triển của văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, có nhiều tác giả, tác phẩm của dân tộc Thái đã đƣợc
giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc yêu mến, khẳng định.
Đƣợc nuôi dƣỡng từ nôi văn hoá giàu bản sắc, thơ ca dân tộc Thái thời
kỳ hiện đại đã từng bƣớc khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển của
nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu, đánh
giá về thơ văn dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng vẫn
chƣa xứng đáng với tầm vóc và thành tựu của nó. Nhà thơ Lò Ngân Sủn nói
đến tình trạng “bất cập, hẫng hụt” trong đời sống phê bình văn học các dân
tộc thiểu số qua bài viết “Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công việc
ít đƣợc quan tâm”. Riêng đối với việc nghiên cứu, phê bình thơ ca dân tộc
Thái thời kỳ hiện đại thì cũng nằm trong tình trạng “bất bình đẳng” nhƣ vậy:
“việc tổ chức, sƣu tầm, nghiên cứu, giới thiệu chƣa đƣợc tiến hành liên tục,
rộng khắp” [52, tr.12]. Vì thế, việc nghiên cứu đặc điểm thơ ca dân tộc Thái
thời kỳ hiện đại dƣới góc độ khoa học sẽ góp phần khẳng định những đóng
góp về mặt nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái,
mặt khác cũng làm xoá đi tâm lý “chiếu cố” (Lâm Tiến) khi nghiên cứu văn
học dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Thái nói riêng.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ ca dân tộc Thái hiện đại, luận văn chỉ ra
một số đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc Thái về nội dung và hình thức
nghệ thuật. Đó là hình ảnh thiên nhiên, quê hƣơng, con ngƣời, bản mƣờng
cùng với những phong tục, tập quán giàu bản sắc của dân tộc Thái. Vẻ đẹp
hoang sơ, kỳ vĩ, thơ mộng của thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc; Sự dung dị,
chân thành, nhân ái, khéo léo và tài hoa của con ngƣời miền núi theo cách

sự trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại Tuy còn non trẻ
nhƣng đã có lực lƣợng, thành tựu qua mấy chục năm phát triển” [9]. Song
việc phê bình, nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số hiện nay ở nƣớc ta còn
nhiều hạn chế, còn đang lâm vào tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá ” [69,
tr.27]. Vì vậy, nhiều tác giả, tác phẩm chƣa đƣợc chú ý, nhiều thực tế phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
phú chƣa đƣợc tổng kết, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chƣa đƣợc xem xét,
nghiên cứu cặn kẽ, thấu đáo.
Tuy nhiên, đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu, đánh giá về
văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có văn thơ Thái hiện đại nhƣ trong các
cuốn: Đƣờng chúng ta đi (NXB Việt Bắc, 1972), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng
sắc (NXB Văn hoá, 1977), Chặng đƣờng mới (NXB Văn hoá, 1985) của
Nông Quốc Chấn; Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-
1985 (NXB Văn hoá, 1981); 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Phong Lê (NXB VHDT, 1985), Văn học các dân tộc- từ một
diễn đàn (1999) của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam;
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (NXB VHDT,1995), Văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam (NXB VHDT, 1997), Về một mảng văn học
dân tộc (NXB VHDT, 1999), Văn học và miền núi (NXB VHDT, 2002) của
Lâm Tiến, Hoa văn thổ cẩm (NXB VHDT, 1999), Thơ của các nhà thơ dân
tộc thiểu số (NXB VHDT, 2001), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu
số (NXB VHDT, 2002) của Lò Ngân Sủn, Nhà văn các dân tộc thiểu số- Đời
và văn (NXB VHDT 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Văn hoá các dân tộc thiểu số- Từ một góc nhìn (NXB VHDT
2004) của Vi Hồng Nhân…và một số bài viết về văn học các dân tộc thiểu số
đăng rải rác trên các báo, tạp chí nhƣ: Văn học thiểu số trƣớc thềm thế kỷ XXI
của Mai Liễu, Bản sắc dân tộc- Nỗi lo của ngƣời cầm bút của Triệu Kim Văn;
Để văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam có chất lƣợng ngang

nên diện mạo thơ Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Thị Thu Hiền- Chúng ta đã có
một nền văn nghệ dân tộc thiểu số); hay việc giới thiệu những tác phẩm tiêu
biểu: “Thơ dân tộc thiểu số đã từng có tác phẩm đỉnh cao: Muối Cụ Hồ (Bàn
Tài Đoàn), Em là con gái Châu Yên (Cầm Giang), Ing éng (Vƣơng Trung),
Đất, Dốc, Núi (Lƣơng Quy Nhân), Hoa trong Mƣờng (Vƣơng Anh), Đi tìm
bóng núi, Cực tình (Dƣơng Thuấn), Rƣợu núi (Lò Cao Nhum)…” [71].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Ngoài ra, việc lấy văn hoá Thái làm đối tƣợng nghiên cứu bƣớc đầu cũng
đƣợc quan tâm, thể hiện ở một số công trình, bài viết nhƣ: “Ngƣời Thái gửi
gắm tâm hồn mình vào lời ca, điệu khắp. Chính những bài khắp, điệu pí đó đã
nâng họ vƣợt lên bề mặt cuộc sống vốn gian lao, vất vả, tiếp thêm sức mạnh
cho họ bay bổng vƣơn lên” [29, tr.250]; “Thẩm mỹ Thái qua trang phục biểu
hiện một tâm hồn tinh tế, một sự rung cảm sâu xa của cộng đồng trong giới tự
nhiên và chính bản thân con ngƣời” [29, tr.294]; “Nhà sàn Thái là biểu tƣợng
cho sự tài hoa của con ngƣời, vừa đậm tính thẩm mỹ cao vừa kết hợp hài hoà
vẻ đẹp tự nhiên với đất trời” [45, tr.24) Ngoài ra còn có một số công trình,
bài nghiên cứu có liên quan nhƣ: Lễ “Khửn cẩu”- nét đẹp văn hoá truyền
thống của ngƣời Thái của Tô Hợp [22]; Ẩm thực Thái- Sự giao hoà với thiên
nhiên- dân tộc và thời đại của Tố Minh [50]; “Ngƣời Thái cúng vật nuôi ngày
tết” của La Quán Miên [47]; “Cách làm đẹp của các cô gái Thái” của Hà
Lâm Kỳ, “Tục cúng vía của ngƣời Thái đen” của Hoàng Hạnh [33] …Những
bài viết, công trình này chủ yếu đề cập tới những phong tục tập quán của dân
tộc Thái và nhấn mạnh đến nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái chứ không đi
sâu vào bình diện nội dung hay nghệ thuật thơ dân tộc Thái.
Một số các tác giả ngƣời dân tộc Thái đã đƣợc giới phê bình chú ý và có
những đánh giá nhƣ: “Cầm Biêu vẫn giữ đƣợc phong cách của một ngƣời làm
thơ dân tộc trƣớc đây ông luôn luôn có ý thức dùng hình thức thơ ca truyền
thống để thể hiện con ngƣời và cuộc sống hôm nay ” [84, tr.132]; “Thơ Cầm

sắc của nền văn học Việt Nam. Sự phát triển phong phú, đa dạng của nó đã có
những đóng góp đáng kể vào diện mạo chung của văn học Việt Nam hiện đại.
Do đó muốn tìm hiểu những đặc điểm của thơ ca Việt Nam hiện đại, không
thể không nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của bộ phận thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam, trong đó có thơ ca dân tộc Thái.
Ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, thơ ca dân tộc Thái đã dần khẳng định vị trí và chỗ
đứng của mình trên thơ đàn. Việc tìm hiểu, nghiên cứu một số những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
điểm của thơ ca dân tộc Thái hiện đại từ năm 1945 đến nay góp phần tìm
hiểu, soi sáng một bộ phận văn học trong bức tranh văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam, từ đó có cái nhìn tƣơng đối đầy đủ, toàn diện về những đặc
điểm nổi bật, độc đáo của thơ ca dân tộc Thái trên các bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật.
Từ việc nghiên cứu “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện
đại từ năm 1945 đến nay” luận văn khẳng định những đóng góp về nội dung
cũng nhƣ về nghệ thuật thơ dân tộc Thái trong quá trình phát triển của thơ ca
các dân tộc thiểu số nói riêng và sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đọc, tham khảo và nghiên cứu các loại
tài liệu sau:
- Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Thái từ năm 1945 đến nay.
- Một số tác phẩm thơ dân tộc Thái trƣớc năm 1945, đặc biệt là thơ dân
gian Thái (để so sánh, đối chiếu).
- Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác để so sánh, đối chiếu
làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
- Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Thái nói riêng và các

tích những tác phẩm thơ ca của một số nhà thơ tiêu biểu sẽ giúp ngƣời nghiên
cứu tổng hợp và khái quát đƣợc những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ
thuật của thơ ca Thái hiện đại.
5. 2. Phương pháp đối chiếu, so sánh:
Việc sử dụng phƣơng pháp đối chiếu, so sánh nhằm tìm hiểu sự ảnh
hƣởng, tiếp thu có chọn lọc của các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại với các tác
phẩm của nền văn học dân gian Thái, giữa các sáng tác của dân tộc Thái với
các nhà thơ dân tộc anh em , từ đó đi đến khẳng định những đặc điểm nổi bật
của thơ văn dân tộc Thái hiện đại.

5. 3. Phương pháp thống kê, phân loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Để việc phân tích, lý giải, đối chiếu, so sánh có kết quả, cần phải thực
hiện công việc thống kê, phân loại.

Ba phƣơng pháp trên đây đƣợc sử dụng và phối hợp chặt chẽ với nhau
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu tổng hợp khác.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung đƣợc triển khai theo 3
chƣơng:
Chƣơng I. Một vài nét về diện mạo thơ ca dân tộc Thái.
Chƣơng II. Những mạch nguồn cảm hứng nuôi dƣỡng và phát triển thơ
ca dân tộc Thái thời kỳ hiện đại.
Chƣơng III. Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ ca dân tộc Thái thời kỳ
hiện đại.


quý”, còn vào cuối thế kỷ XIX, dân tộc Thái cũng có Ngần Văn Hoan viết
“Lời hát nền Văn Hoan” tuy nhiên, sự xuất hiện đó còn ở dạng “lẻ tẻ, không
có sự chắp nối, chất lƣợng tác phẩm còn mang đậm dấu vết của văn học dân
gian” [81, tr.139] nên chƣa đủ điều kiện hình thành một nền văn học các dân
tộc thiểu số bên cạnh nền văn học của ngƣời Kinh.
Tác giả Nông Quốc Bình trong bài viết “Nhìn lại văn học nghệ thuật các
dân tộc thiểu số” [2] và tác giả Đỗ Kim Cuông trong bài “Văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam trong qúa trình đổi mới” [12] đều khẳng định:
Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời cùng cuộc
cách mạng tháng 8/ 1945. PGS-TS Phan Đăng Nhật trong cuốn “Văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam” [59] cũng lấy năm 1945 để làm mốc phân chia
giữa văn học dân gian và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đồng nhất với các ý kiến trên, nhà nghiên cứu, phê bình văn học các dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
thiểu số Lâm Tiến nhận định “Thơ các dân tộc thiểu số hiện đại hình thành và
phát triển từ sau năm 1945” [81, tr.94], ông thừa nhận, dù mầm mống của
văn học hiện đại các dân tộc thiểu số đã có trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945
nhƣng nó thực sự chỉ ra đời từ sau cách mạng tháng 8/1945 và ông cũng
khẳng định “thơ là thể loại xuất hiện đầu tiên” của nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
Nhƣ vậy, việc lấy năm 1945 là mốc ra đời của nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại là quan niệm chung nhất, phổ biến nhất của các
nhà nghiên cứu hiện nay.

1.1. Thơ ca dân tộc Thái trước năm 1945
Trƣớc cách mạng tháng 8/ 1945, văn học các dân tộc thiểu số chủ yếu là
văn học dân gian. Cũng giống nhƣ nền văn học dân gian của ngƣời Kinh, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân

truyền miệng.

Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, ngoài ca dao, dân
ca, tục ngữ, dân tộc Thái nổi tiếng với truyện thơ, sử thi. Đây là hai loại hình
tiêu biểu của văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Thái
nói riêng. Nếu nhƣ sử thi có âm hƣởng anh hùng ca, thể hiện khát khao xây
dựng cuộc sống thái bình, thịnh trị của cộng đồng dân tộc Thái trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ bản, mƣờng thì truyện thơ mang giọng điệu trữ tình
đằm thắm, thể hiện khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống và tình yêu lứa đôi
của ngƣời dân tộc Thái.
Cùng với một số sử thi tiêu biểu nhƣ Đam San, Xinh Nhã, Đăm Đơ roăn
của dân tộc Êđê, Đẻ đất đẻ nƣớc của dân tộc Mƣờng, Đăm roi của dân tộc
Bana , dân tộc Thái có hai sử thi nổi tiếng là Táy pú xấc” và Chƣơng Han.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Táy pú xấc là tác phẩm sử thi lớn của dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc. Tác
phẩm có độ dài hàng ngàn câu thơ, kể chuyện “ông cha chinh chiến”, khai
phá, mở mang, xây dựng bản, mƣờng. Táy pú xấc diễn tả dòng chảy lịch sử,
khắc sâu những sự kiện hào hùng nên vừa mang chất sử liệu vừa mang chất
anh hùng ca. Táy pú xấc thể hiện “tƣ tƣởng, tình cảm, tâm tƣ, tâm hồn của
cộng đồng dân tộc Thái đối với lịch sử” [97, tr. 24].
Sử thi Chƣơng Han còn đƣợc gọi là Khun Chƣởng gồm 2940 câu, chia
thành 11 chƣơng đƣợc lƣu truyền ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Giá trị và ý
nghĩa của tác phẩm tập trung ở nhân vật Chƣơng Han- nhân vật anh hùng
chiến đấu.
Với sức mạnh vô song, Chƣơng Han đã dẹp tan các bộ lạc, thống nhất
toàn bộ địa bàn cƣ trú và đem lại cuộc sống đời thái bình, thịnh trị cho ngƣời
Thái:
Từ đó Chƣơng Han đƣợc ung dung ngự trị cõi đời

độ mẫu mực nhƣ Tản chụ xống xƣơng (Tâm tình tiễn thƣơng) và Khun Lú-
nàng Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa) và đặc biệt là Xống chụ xôn xao (Tiễn dặn
ngƣời yêu).
Xống chụ xôn xao gồm 1846 câu thơ, kể về hai nhân vật “Anh yêu” và
“Em yêu” từ khi còn trong bụng mẹ. Họ đƣợc sinh ra gần nhƣ cùng một giờ,
một ngày và ở một bản. Từ thủa bé thơ, họ cùng chơi bên nhau, đến tuổi hoa
niên, đôi trẻ cùng ở sàn hoa. Nhƣng vì tục lệ hà khắc của lễ giáo phong kiến,
tình yêu của họ bị ngăn cản, “Em yêu” bị gả bán và phải sống những chuỗi
ngày sóng gió. Giá của “Em yêu” ngày nào đáng “vàng thoi, bạc nén”, bây
giờ chỉ bằng một “cuộn lá dong”. Họ gặp lại nhau trong hoàn cảnh hết sức éo
le: “Anh yêu” đã có gia đình, còn “Em yêu” trở thành món hàng bị rao bán ở
chợ. Nhờ tiếng “đàn môi” quen thuộc, họ đã nhận ra nhau và cuối cùng họ
cũng đến đƣợc với nhau, đƣợc đoàn tụ và hạnh phúc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Đôi ta lấy nhau không hề chi phận lỡ,
Không quản chi tình ế, duyên ôi
Em của anh đây vẫn mãi đẹp tƣơi!
(Tiễn dặn ngƣời yêu)
Có thể nói Xống chụ xôn xao là truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Thái, đã
chắt lọc đƣợc những tinh hoa của dân ca dân tộc Thái:“Bao nhiêu lời thƣơng
nhớ, lời tự tình trai gái, đến cả lời vè, lời văn trôi cửa miệng của nhân dân
dân tộc Thái đều hợp nhất vào đây” [11, tr.3]. Xống chụ xôn xao là bản tình
ca ca ngợi tình yêu thuỷ chung, bất diệt của con ngƣời, là tiếng nói tâm hồn,
mang cách cảm, cách nghĩ và khát vọng của ngƣời dân tộc Thái về tình yêu
đôi lứa, về hạnh phúc cá nhân của con ngƣời.
Với kết cấu độc đáo, tràn đầy kịch tính, ngôn ngữ kể chuyện đƣợc gọt
giũa thành lời thơ, những câu thơ gợi cảm, nhiều hình ảnh Xống chụ xôn xao
xứng đáng là “một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong kho tàng thơ ca

phú, đa dạng của cộng đồng dân tộc Thái với những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Thái.
Sử thi Thái đã thu hút cả tri thức và các sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của
dân tộc Thái: Từ những lời tục ngữ, vần, vè ngắn gọn đến các bài ca nghi lễ
cúng thần; từ những bài ca tục lệ trong cộng đồng đến những bài dân ca đối
đáp nam, nữ. Ngôn ngữ sử thi sinh động về hình tƣợng, hài hoà về nhạc điệu,
đối lập và kịch tính tạo nên sử thi anh hùng. Đó là phong cách kỳ vĩ hoá của
phƣơng pháp lãng mạn, thông qua các biện pháp cƣờng điệu, phóng đại, ngoa
dụ rất phổ biến trong cách xây dựng tính cách nhân vật, miêu tả thiên nhiên.
Truyện thơ đƣợc phô diễn bằng những lời thơ mang sắc thái ngôn ngữ
độc đáo của dân ca, những lời thơ giàu nhạc điệu của điệu “khắp”. Cách giải
quyết thiên về phong cách lãng mạn trong kết thúc của truyện thơ không lấn
át đƣợc không khí hiện thực mang nặng tâm tƣ buồn tủi của lứa đôi bị trắc trở
trong tình duyên dƣới chế độ cũ nhƣng chính không khí hiện thực mang nặng
tâm tƣ đó đã tạo nên phong cách trữ tình đậm đà, sâu lắng cho truyện thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Truyện thơ, sử thi dân tộc Thái đã góp phần đánh dấu một bƣớc phát
triển cao và khẳng định vị trí của văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Hai
thể loại này đã đạt đƣợc những thành tựu xuất sắc về số lƣợng cũng nhƣ về
chất lƣợng. Truyện thơ, sử thi đã tập hợp đƣợc những tinh hoa các thể loại
văn học dân gian, đồng thời cũng có những ảnh hƣởng sâu sắc đến các thể
loại phát triển sau nó. Sức lôi cuốn mạnh mẽ của truyện thơ đƣợc ngƣời Thái
diễn đạt trong câu ví “Hát tiễn dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau,
chàng trai quên cày ruộng” [11, tr.168]. Và đối với sử thi, với cách nói phóng
đại, cách diễn tả “vƣợt xa hơn cái mẫu” cùng với sự tổng hợp các hình thức
nghệ thuật dân gian (giống nhƣ ở truyện thơ) đã tạo nên bề bộn, rộng
lớn góp phần kích thích trí tƣởng tƣợng phong phú của ngƣời nghe mà theo
nhƣ Gorki đã đúc kết: “Cái đẹp đƣợc nhận thức là sự kết hợp nhiều chất liệu

Vì thuộc thể loại “khắp xƣ” (tức là hát thơ) nên có những đoạn dài trong
tác phẩm, nhân vật Sy Ly và Liêng Khăm chuyện trò với nhau để bày tỏ tâm
sự bằng hình thức của dân ca trữ tình đối đáp nhƣ “khắp báo xao” (hát trai
gái)- một loại hình văn nghệ tiêu biểu của đồng bào Thái Trong toàn bộ tác
phẩm, ta thấy dáng dấp trữ tình đằm thắm của các bản tình ca Thái nhƣ Xống
chụ xôn xao, Tản chụ xiết xƣơng…
Nhƣ vậy, tác phẩm Lời hát nền Văn Hoan đã kết tinh đƣợc những tinh
hoa của kho tàng văn học dân gian đồ sộ của dân tộc Thái nhƣ truyện cổ tích,
truyện thơ, truyện sử thi và sử dụng khéo léo các thể loại ca dao, tục ngữ, dân
ca nhƣng trên tinh thần mở rộng và phát triển hơn. Cảm xúc, tâm trạng và ý
nghĩ của nhân vật đã đƣợc thể hiện sinh động, phong phú, tinh tế và sâu sắc.
Có thể thấy “Tác phẩm biểu hiện tri thức dân gian khá sâu sắc nhƣng có đoạn
thơ đã mang tính bác học khá cao, đó là cách sử dụng khái quát các vấn đề
văn học Thái” [29, tr.186].
Với Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân Văn Hoan, dân tộc Thái ghi
tên mình vào chặng đƣờng hình thành, phát triển đầu tiên của văn học viết các
dân tộc thiểu số Việt Nam và đóng vai trò là bƣớc chuyển tiếp giữa văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
dân gian và văn học thành văn dân tộc Thái, chuẩn bị những tiền đề quan
trọng để hình thành và phát triển văn học dân tộc Thái hiện đại nói riêng và
văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.

Nói về sự phát triển của thơ ca dân tộc Thái, ngoài nền tảng vững chắc là
kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng và những tác phẩm thơ hát của
nghệ nhân Ngần Văn Hoan thì không thể không nói đến những bài thơ đƣợc
sáng tác từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, những bài thơ đã phản ánh thực trạng xã
hội và sự vận động tinh thần tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân từ
những năm 1940-1945 nhƣ: Hua Chaƣ khanh cánh ngan nha bản (Trái tim

thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Với tác phẩm Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy) của Cầm Biêu, Cán bộ với dân
của Lƣơng Quy Nhân, Tội ác giặc Pháp ở đồn Pom Nghê của Hoàng Nó
Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó là những nhà thơ đầu tiên ghi tên
mình vào sự hình thành của văn học dân tộc Thái hiện đại.
Là một tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng các dân tộc thiểu số,
Khẩu ma tứn (Lúa chó dậy-1940) đƣợc Cầm Biêu viết trong không khí hồ hởi
theo cách mạng. Bài thơ là một cảm xúc rất thật của chàng thanh niên 20 tuổi
Cầm Biêu vì căm tức thói hống hách, dâm ô của một tên chánh tổng con quan
luôn giở trò cƣớp bóc của dân bản, trêu chòng con gái nhà lành, ông đã
“chửi” bọn chúng là lũ “vện” chuyên tranh nhau để “rình đớp xôi thơm” của
mọi ngƣời. Vì vậy, tác phẩm đã đƣợc các đồng chí hoạt động cách mạng lúc
đó ở địa phƣơng dùng làm thơ tuyên truyền, phát động lòng căm thù giặc
trong quần chúng.
Khiến lũ vện phƣơng xa nhỏ rãi, hắt hơi
Đứng phắt dậy, cong đuôi trở nghề ăn cƣớp
Kéo nhau về rình đớp xôi thơm
(Lúa chó dậy-Cầm Biêu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Có thể nói, dƣới ánh sáng của Đảng, cách mạng, những ngƣời dân tộc
thiểu số yêu nƣớc đã tin tƣởng và một lòng đi theo cách mạng. Họ dùng văn
chƣơng để làm công cụ tuyên truyền đấu tranh và nói lên tiếng nói, tình cảm
của những ngƣời dân tộc miền núi với Đảng, Bác. Mặc dù những sáng tác ấy
còn gần với dân ca, truyện cổ, với lời thoại sinh hoạt, “thơ chƣa mấy chất
thơ” (Cầm Biêu) nhƣng đó là sự khởi đầu rất đáng quý để các nhà nghệ sĩ-
chiến sĩ khai phá con đƣờng bứt lên thành tác giả- góp phần hình thành, phát
triển đội ngũ của nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status