Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn biện chứng giữa nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Pdf 12

Đề cơng
A. Lời mở đầu.
B. Nội dung.
I. Cơ sỡ lý luận: Quy luật thống nhất và đáu tranh giữa các mặt đối lập (Quy
luật mâu thuẫn) Nội dung cơ bản.
1. Các khái niệm cơ bản.
2. Mâu thuẫn là một hiên tợng khách quan và phổ biến.
3. Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
4. Phơng pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn .
5. Một số loại mâu thuẫn và hớng giải quyết mâu thuẫn.
6. ý nghĩa phơng pháp luận.
II . Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn biện chứng giữa
nền kinh tế thị trờng với định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1. Một số vấn đề lý luận về nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
1.1 Những nét khái quát về kinh tế thị trờng.
1.2 Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Phân tích một số mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Nhóm mâu thuẫn thứ nhất: Các mâu thuẫn phát sinh từ bản thân nền kinh
tế .
2.1.1 Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lợng
sản xuất.
2.1.2 Mâu thuẫn giữa tính tự phát và tính tự giác trong quá trình phát trình
kinh tế.
2.1.3 Mâu thuẫn trong quá trình phân phối thu nhập.
2.1.4 Mâu thuẫn trong sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội.
2.1.5 Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
2.2 Nhóm mâu thuẫn thứ hai: Các mâu thuẫn phát sinh do sự tác động của
nền kinh tế tới xã hội.

không ngừng đổi mới trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, t tởng, xã hội.
Để nắm rõ và hiểu sâu sắc hơn chủ trơng, đờng lối của Đảng và thực trạng
của nền kinh tế Việt Nam, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Phép biện chứng về
mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta" dới góc độ triết học, trong tổng thể
mối quan hệ biện chứng với nền tảng t tởng lý luận của triết học Mac Lê-nin.
Với trình độ còn hạn chế của mình, chắc chắn bài tiểu luận sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi mong nhận đợc sự nhận xét, đóng góp ý kiến
của ngời đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Văn Thọ và ThS Nguyễn Vân Hà
đã hớng dẫn tôi hoàn thành bài tiểu luận !
Hà nội, tháng1-2003.
Sinh viên
Nguyễn Quý Tùng

B. Nội dung
2
I. Cơ sở lí luận: Quy luật thống nhất và đấu tranh của những mặt
đối lập (Quy luật mâu thuẫn ).
Quy luật thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập (Còn gọi là quy
luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong
của sự vận động và phát triển. Lê-nin viết: Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Nh thế là nắm đợc
hạt nhân của phép biện chứng, nhng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và
một sự phát triển thêm (V.I Lê-nin:Toàn tập,tr29.Nxb Tiến bộ.M1981,tr. 240).
Nắm vững nội dung của quy luật này là cơ sở để hiểu biết tất cả các phạm trù và
quy luật khác của phép biện chứng duy vật. Nó giúp ngời ta hình thành phơng
pháp, hình thành t duy khoa học, biết khám phá bản chất của các sự vật và giải
quyết các mâu thuẫn nảy sinh thúc đẩy sự vật phát triển.
1. Các khái niệm cơ bản.

nin:Bút kí triết học. Nxb Sự thật. Hà Nội, 1963, tr. 382.).
Chúng ta cần hiểu đúng về hai khái niệm thống nhất và đồng nhất: sự đồng
nhất là một trạng thái của sự thống nhất, khi vai trò của các mặt đối lập ngang
nhau, tức là trong lúc đấu tranh với nhau, các mặt đối lập tác động ngang nhau thì
có sự đồng nhất. Lê-nin nói: Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những
mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thờng là (và trở thành ) đồng nhất-trong
những điều kiện nào chúng là đồng nhất bằng cách chuyển hoá từ mặt đối lập
này sang mặt đối lập là chét, cứng đờ, mà là sinh động, có điều kiện, hoạt động,
chuyển hoá lẫn nhau(V.I.Lê-nin:Bút kí triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983,tr.
118).
Những ngời theo quan điểm siêu hình hiểu sự thống nhất một cách cứng đờ,
phiến diện, họ cho rằng sự vật là một cái gì thống nhất tuyệt đối, trong đó không
có sự biến hoá, không có sự khác nhau nào cả. Đối với họ sự thống nhất và sự
khác nhau hoàn toàn tách rời nhau. Ngợc lại, theo quan điểm biện chứng thì sự
thống nhất và sự khác nhau không tách rời nhau. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó lại
vùa là cái khác với nó. Trong sự thông nhất đã có sự khác nhau rồi, chứ không có
sự thống nhất nào là tuyệt đối cả.
1.3. Đấu tranh của các mặt đối lập là gì?
Sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh của các mặt
đối lập. Mỗi sự vật hay hiện tợng là một thể thống nhất của hai mặt đối lập, hai
mặt đó liên hệ với nhau, có khuynh hớng phát triển trái ngợc nhau, nên chúng
không nằm yên ở bên nhau mà bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Đó là sự đấu
tranh của các mặt đối lập

Khái niệm đấu tranh ở đây đợc Lê-nin dùng đôi khi đặt trong những dấu
ngoặc kép. Không nên hiểu sự đấu tranh của các mặt đối lập bao giờ cũng với
nghĩa đen của từ ấy. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ lẫn nhau, phủ
định lẫn nhau của chúng, thể hiện ra dới những dạng rất khác nhau. Thí dụ: sự đấu
tranh giữa hai giai cấp đối kháng trong xã hội có giai cấp diễn ra dới dạng xung
quanh đột với về mặt vật chất, hai bên dùng bạo lực đới xử với nhau. Điều đó dễ

Trên đây chúng ta đã nói đến nội dung của khái niệm đấu tranh của các
mặt đội lập. Đối với phép biện chứng duy vật, nghiên cứu sự đấu tranh của các
mặt đối lập là rất quan trọng vì sự đấu tranh đó nói lên nguồn gốc và động lực bên
trong của sự phát triển của các sự vật và hiện tợng.
Lê-nin nói: Phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập(V.I.Lê-nin:Bút kí triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 382).
Thực vậy, trong giới tự nhiên, sự đấu tranh của các mặt đối lập nh điện tích
âm dơng, sức hút và sức đẩy, hoà hợp và phân giải của các nguyên tử, đồng hoá và
dị hoá, di truyền và biến dị,v.v... đã làm cho thế giới vật chất vận động và phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phắc tạp. Trong xã hội loài ngời, mâu thuẫn
giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn gốc của sự phát triển của xã
hội đi từ hình thái kinh tế-xã hội này đến hình thái kinh tế-xã hội khác.
1.4.Mâu thuẫn là gì?
Mâu thuẫn chính là sự tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập, hay
nó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của một sự vật, hiện tợng
hoặc giữa các sự vật, hiện tợng với nhau.
Một sự vật, hiện tợng bất kỳ luôn có những mâu thuẫn. Bởi vậy, mâu thuẫn
là một hiện tợng phổ biến, và nó mang tính khách quan, tất yếu trong quá trình
tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tợng.
5
2.Mâu thuẫn là một hiện t ợng khách quan và phổ biến.
Phơng pháp siêu hình cho rằng không có mâu thuẫn ở bên trong một sự vật
hoặc hiện tợng, mà chỉ có sự khác nhau hoặc mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tợng
với nhau, trong t tởng có thể có mâu thuẫn, nhng một khi t tởng có mâu thuẫn thì
nó là sai lầm, không triệt để.
Trái với phơng pháp siêu hình, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng
mọi sự vật và hiện tờng trên thế giới đều là sự thống nhất của các mặt, các thuộc
tính, các khuynh hớng đối lập nhau, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập đó
làm cho sự vật, hiện tợng vận động và phát triển. Hay nói cách khác mâu thuẫn là
một hiện tợng mang tính khách quan.

thuẫn đợc giải quyết thì sự thống nhất của các mặt đối lập mới, các mặt đối lập
mới này lại đấu tranh với nhau. Bất cứ sự thống nhất nào của các mặt này lại đấu
tranh với nhau. Bất cứ sự thống nhất nào của các mặt đối lập cũng đều có tính chất
tạm thời, tơng đối của các sự vạt và hiện tợng . ở đây Lê-nin còn nói đến sự thống
nhất của các mặt đối lập với ý nghĩa là sự phù hợp, tác dụng nhau của chúng.
Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập của mọi mâu thuẫn, đến một lúc nào
đó với những điều kiện nhất định, có thể xảy ra sự phù hợp của hai mặt đói lập về
một điểm nào đó hay sự ngang bằng nhau về sức làm cho cha bên nào thắng đợc
bên nào. Rõ ràng là tình hình đó chỉ có tính chất tạm thời, thoáng qua, tơng đối
mà thôi.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó diễn ra
liên tục không bao giờ ngừng. Trong suốt quá trình tồn tại của một thể thống nhất,
hai mặt đối lập đấu tranh với nhau suốt từ đầu đến cuối, chính sự đấu tranh đó đã
làm cho thể thống nhất này bị phá vỡ, chuyển sang thể thống nhất mới, trong thể
thống nhất mới này sự đấu tranh lại tiệp tục diễn ra, do đó mà có sự vận động và
phát triển của sự vật và hiện tợng.
Nh vậy là tính tơng đối của sự thống nhất của các mặt đối lập nói lên rằng
mợi vật chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, có phát sinh, phát triển rồi tiêu
vong. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động,
phát triển không ngừng của thế giới vật chất, chuyển từ dạng này sang dạng khác
một cách vô tận.
Nguyên lý nói trên của Lê-nin là hoàn toàn đúng đắn. Ngày nay có ngời
cho nguyên lý đó đã lỗi thời. Họ viện cớ rằng Lê-nin đã khái quát thực tiễn của
xã hội t bản, tức xã hội có đấu tranh giai cấp nên mới nêu ra nguyên lý thống nhất
là tơng đối, đấu tranh là tuyệt đối, đến nay xã hội xã hội chủ nghĩa không còn giai
cấp bóc lột nữa thì, theo họ, phải nói ngợc lại thống nhất là tuyệt đối, đấu tranh
là tơng đối. Họ lập luận rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa sự thống nhất về
chính trị và tinh thần giữa các tầng lớp nhân dân đã trở thành mặt cơ bản của xã
hội thì đấu tranh giai cấp không còn nữa hoặc không đáng kể nữa. Luận điệu đó
hoàn toàn sai lầm. Trớc hết cần nhớ rằng Lê-nin nêu ra nguyên lý trên là do khái

Trong thế giới mâu thuẫn có tính phổ biến, nhng mỗi mâu thuẫn lại có tính
riêng biệt của nó. Nghiên cứu tính phổ biến của mâu thuẫn giúp chúng ta biểu đợc
nguyên nhân phổ biến của sự vận động và phát triển nói chung của thế giới vật
chất. Nhng nếu không nghiên cứu tính riêng biệt của mâu thuẫn thì không xác
định đợc bản chất riêng biệt làm cho sự vật này khác với sự vật khác, không thấy
đợc nguyên nhân cụ thể làm cho sự vật đó vận động và phát triển.
Nghiên cứu tính riêng biệt của mâu thuẫn cần chú ý đến ba mặt sau đây:
Một là, sự vật khác nhau, quá trình khác nhau có những mâu thuẫn khác
nhau. Mỗi sự vật có mâu thuẫn riêng của nó. Mâu thuẫn riêng biệt của từng sự
vật tạo nên bản chất riêng biệt của sự vật đó. Thí dụ: mâu thuẫn trong giới vô cơ
khác với mâu thuẫn trong giới hữu cơ, mâu thuẫn trong tự nhiên khác với mâu
thuẫn trong xã hội, mâu thuẫn trong xã hội có giai cấp cũng khác mâu thuẫn trong
xã hội không có giai cấp, v..v.. Chính do nghiên cứu những loại mâu thuẫn riêng
biệt đó mà có các ngành khoa học khác nhau nh vật lý học, hoá học, sinhvật
học , xã hội học, v..v...
Hai là, trong một sự vât, quá trình phức tạp có nhiều mâu thuẫn thì mỗi
mâu thuẫn lại có đặc điểm riêng của nó. Mỗi mâu thuẫn giữ một vai trò khác
nhau đối vói sự vận động và phát triển của sự vật. Nhất là trong xã hội thì những
mâu thuẫn lại càng phức tạp, khác nhau. Thí dụ: nớc ta hiện nay có nhiều mâu
thuẫn: mâu thuẫn giữa hai con đờng xã hội chủ nghĩa và t bản chủ nghĩa, mâu
thuẫn giữa công nghiệp và nông nghiệp, mâu thuẫn giữa giai cấp t sản và giai cấp
công nhân, mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, v. v...
Mỗi mâu thuẫn đó đều có tính chất và vai trò riêng. Có cái là mâu thuẫn cơ bản ,
có cái là mâu thuẫn không cơ bản, có cái là mâu thuẫn đối kháng, có cái là mâu
thuẫn không đối kháng, v.v...
8

Ba là, quá trình phát triển của một mâu thuẫn có nhiều giai đoạn thì ở
mỗi giai đoạn mâu thuẫn và mỗi mặt của nó lại có đặc điểm riêng. Thật vậy,
mâu thuẫn của nó sự vật không phải lúc nào cũng giữ nguyên trạng thái cũ mà nó

Trong việc giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội, chúng ta phải chống
bệnh giáo điều, máy móc, giải quyết mâu thuẫn một cách rập khuôn nh nhau
trong những diều kiện khác nhau. Thí dụ: giải quyết mâu thuẫn giữa nền kinh tế
thị trờng với định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta, nếu rập khuôn theo cách giải
quyết mâu thuẫn đó ở Liên Xô hay Trung Quốc thì sẽ sai lầm. Làm nh vậy là chỉ
thấy tính phổ biến của mâu thuẫn ấy mà không thấy tính riêng biệt của nó. Mặt
khác, chúng ta lại phải chống khuynh hớng coi nhẹ hoặc phủ nhân tính phổ biến
của mâu thuẫn mà thổi phồng tính riêng biệt của mâu thuẫn. Làm nh vậy là chỉ
thấy đặc điểm riêng của sự vật mà không thấy những quy luật chung chi phối
nhiều sự vật khác nhau. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi phải xem xét và giải
9
quyết mâu thuẫn một cách cụ thể , kết hợp đúng đắn tính phổ biến và tính riêng
biệt của mâu thuẫn. Phơng pháp cụ thể là một phơng pháp vô cùng quan trọng của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Lê-nin nói: Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác
là: phân tích cụ thể một tình hình cụ thể (V.I.Lê-nin: Toàn tập, tập 31,Nxb Sự
thật Hà Nội, 1969,tr.201).
Muốn làm nh vậy, chúng ta phải biết phát hiện mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn của mọi vấn đề. Hồ Chủ Tịch nói: Khi việc gì có mâu thuẫn, khi
phải tìm cách giải quyết tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên cứu
cho rõ cái gốc mâu thuẫn trong vấn đề đó là gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu
các mâu thuẫn đó. Phải phân tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào
là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết.
(X.Y.Z: Sửa đổi lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1954, tr.91).
5. Một số loại mâu thuẫn.
Mâu thuẫn có muôn hình, muôn vẻ, mỗi mâu thuẫn có bản chất riêng. Để
có phơng pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn chúng ta cần phải phân
biệt đợc các loại mâu thuẫn. Về cơ bản thì có mấy loại mâu thuẫn sau:
5.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn ngay trong bản thân sự vật, đợc sinh ra
do sự tác động của các mặt đối lập trong bản thân sự vật. Còn mâu thuẫn bên

giai đoạn nhất dịnh. Nó bị chi phối bởi mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu thờng là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ
bản. Cho nên giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là quá trình giải quyết dần dần
mâu thuẫn cơ bản. Còn giải quyết mâu thuẫn thứ yếu chỉ góp phần đế giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu. Trong hoạt động thực tiễn, nếu ta xác định đợc mâu thuẫn chủ
yếu thì ta xác định đợc nhiệm vụ trung tâm cần tập trung giải quyết trong giai
đoạn đó.
5.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hớng, những lực l-
ợng xã hội, mà lợi ích căn bản đối lập nhau không thể điều hoà đợc. Ví dụ nh:
mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa địa chủ và nông dân, giữa t sản và vô sản
v.v..
Mâu thuẫn kkhông đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hớng,
những lực lợng xã hội, mà lới ích nhất trí với nhau là căn bản, còn mâu thuẫn chỉ
là tạm thời, cục bộ, không căn bản. Ví dụ nh: mâu thuẫn giữa công nhân và nông
dân, công nhân và tầng lớp trí thức v.v..
Mâu thuẫn đối kháng khác với mâu thuẫn không đối kháng về tính chất,
đồng thời về xu hớng phát triển lên, còn mâu thuẫn không đối kháng có xu hớng
ngày càng dịu đi. Vấn đề phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng là rất quan trọng để có biện pháp giải quyết thích hợp với từng loại mâu
thuẫn đó. Theo quy luật chung, mâu thuẫn đối kháng đòi hỏi phải đợc giải quyết
bằng bạo lực cách mạng, còn đối với mâu thuẫn không đối kháng thì phảo dùng
phơng pháp tổ chức , cải tạo, giáo dục, thuyết phục, phê bình, tự phê bình để khắc
phục dần dần mâu thuẫn.
6. ý nghĩa ph ơng pháp luận của quy luật mâu thuẫn
11


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status