Triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty PJICO. Thực trạng & một số giải pháp - Pdf 12

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Lời giới thiệu
Trong giai đoạn hiện nay giao lưu buôn bán giữa các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới ngày càng phát triển dẫn tới lượng hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) ngày
càng cao. Lượng hàng hoá này có thể chuyên chở theo nhiều con đường khác nhau như
đường bộ, đường sông, đường không… nhưng chủ yếu là theo đường biển. Khoa học
công nghệ hiện đại đã giúp chúng ta đóng được những con tàu có trọng tải lên tới hàng
nghìn tấn có thể chở được lượng hàng hoá vô cùng lớn. Tuy nhiên, thuận lợi mà cũng
chính là khó khăn của vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là nó phụ thuộc rất nhiều
vào điều kiện tự nhiên. Hiện nay, mặc dù chúng ta đã phát minh ra những công cụ hiện
đại có thể lường trước được những rủi ro do thiên tai như dự báo thời tiết qua vệ tinh, hệ
thống cảnh báo động đất, sóng thần… nhưng thiên tai thường xảy ra bất ngờ và không thể
lường trước được. Bởi vậy, khi thiên tai xảy sẽ gây tổn thất lớn cả về người và của. Xuất
phát từ nhu cầu của thực tế bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển đã ra đời. Có
thể nói nghiệp vụ bảo hiểm này là một trong những nghiệp vụ ra đời sớm nhất trong
ngành bảo hiểm (Năm 1182, bản hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển đầu tiên xuất hiện ở miền Bắc Italia) nhưng vẫn phát triển mạnh cho tới tận ngày nay
và trở thành công cụ không thể thiếu khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Nghiệp
vụ bảo hiểm này ra đời không những giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân yên
tâm, ổn định sản xuất thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn mang lại nguồn thu lớn cho
ngân sách nhà nước. Nhờ có bảo hiểm hàng hoá vận chuyển hàng hoá bằng đường biển
mà thương mại quốc tế có thể phát triển vượt bậc như ngày hôm nay.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước
để chuẩn bị hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Muốn đẩy nhanh quá trình này Việt Nam
rất cần vốn cũng như công nghệ từ các đối tác nước ngoài. Do đó, nhu cầu nhập khẩu các
công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sẽ ngày càng tăng. Theo các chuyên gia
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
phân tích thì trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước thì nhập khẩu có thể cao hơn xuất
khẩu một chút là phù hợp. Điều này tất nhiên sẽ kéo theo kim nghạch tham gia bảo hiểm

Ngọc Hương và các thầy cô giáo trong khoa đã giúp em hoàn thành bài nghiên cứu này.
Em cũng xin cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu của tập thể Ban lãnh đạo công ty bảo hiểm
PJICO đặc biệt là sự hướng dẫn, giúp đỡ của các anh chị trong phòng Quản lý thị trường.
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Chương 1: Khái quát chung về nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hoá nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
I. Đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển và sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển.
1. Đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển
- Xuất nhập khẩu (XNK) hàng hoá là qúa trình chuyển giao quyền sở hữu lô hàng từ
người bán sang người mua. Do đó, việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện
thông qua hợp đồng giữa người mua và người bán. Trong hợp đồng này thường được quy
định rất rõ ràng các nội dung như số lượng, phẩm chất, mã hiệu, quy cách đóng gói, gía
cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu, trả cước phí, phí bảo hiểm, thủ tục và loại tiền được
thanh toán…
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia cho nên
phải chịu sự kiểm soát rất kỹ lưỡng của hải quan, kiểm dịch… tuỳ theo quy định của
nước sở tại. Theo tập quán thương mại quốc tế bất kỳ hàng hoá xuất nhập khẩu nào vận
chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới của một quốc gia đều phải tham gia mua bảo hiểm.
Người tham gia mua bảo hiểm có thể là người bán hàng (người xuất khẩu) hoặc người
mua hàng (người nhập khẩu). Quan hệ giữa Người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối
với hàng hoá được bảo hiểm thường được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm
(HĐBH). Trong trường hợp người bán hàng mua bảo hiểm thì người bán hàng phải
chuyển nhượng HĐBH cho người mua hàng để khi hàng về đến nước nhập, nếu xẩy ra
tổn thất có thể đòi công ty bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá XNK bằng đường biển được vận chuyển bằng tàu biển. Người vận chuyển

Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì vận chuyển bằng đường biển cũng có
một số nhược điểm sau:
- Vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro do các yếu tố tự nhiên, yếu tố kỹ
thuật, yếu tố xã hội hoặc con người.
Do yếu tố tự nhiên: Quá trình vận chuyển hàng hoá trên biển phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên như thời tiết, khí hậu… Mặc dù hiện nay khoa học kỹ thuật rất phát
triển chúng ta có thể dự báo được thời tiết, cảnh báo được động đất sóng thần… nhưng
các yếu tố tự nhiên luôn xảy ra bất cứ lúc nào và không theo một quy luật nhất định nào.
Vì vậy, những thiên tai như: bão, sóng thần, lốc, vòi rồng… khi xảy ra có thể gây thiệt
hại vô cùng to lớn về cả người và của.
Do yếu tố kỹ thuật: Ngày nay, con người ngày càng sử dụng nhiều hơn các phương
tiện khoa học kỹ thuật hiện đại. Nhưng dù máy móc hiện đại đến đâu thì cũng không thể
tránh khỏi những sai sót, trục trặc về mặt kỹ thuật. Đó có thể là trục trặc của chính bản
thân con tàu, kỹ thuật dự báo, các tín hiệu điều khiển từ đất liền hoặc từ vệ tinh… từ đó
gây ra đổ vỡ mất mát hàng hoá trong quá trình vận chuyển hàng hoá XNK.
Do yếu tố xã hội con người: Hàng hoá có thể bị mất trộm, mất cắp, bị cướp hoặc bị
thiệt hại do chiến tranh…
- Tốc độ tàu biển thường chậm, hành trình trên biển thường có thời gian dài nên xác
suất rủi ro xảy ra trên biển là rất cao. Thêm vào đó, việc ứng cứu rủi ro, tai nạn lại gặp rất
nhiều khó khăn.
- Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mỗi chuyến hàng thường có giá trị rất lớn bao
gồm giá trị tàu và hàng hoá trở trên tàu nên khi tổn thất xảy ra sẽ gây tổn thất rất lớn về
tài sản, trách nhiệm và con người.
- Trong quá trình vận chuyển hàng hoá, chủ phương tiện sẽ là người chịu trách nhiệm
chính. Nhưng trách nhiệm này rất hạn chế về thời gian, phạm vi và mức độ tuỳ theo điều
kiện giao hàng và hợp đồng vận chuyển.
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A

- Nếu có vấn đề sơ xuất liên quan đến hàng hoá thì phải kịp thời thông báo cho các
bên liên quan biết để kịp thời giải quyết.
* Người vận chuyển:
- Chuẩn bị người và phương tiện vận chuyển an toàn.
- Có trách nhiệm giao hàng theo đúng địa điểm, thời gian quy định.
- Trong quá trình vận chuyển phải có trách nhiệm đề phòng hạn chế tổn thất.
- Ghi lại hành trình vận chuyển và nguyên nhân xảy ra tổn thất nếu có.
* Người bảo hiểm:
- Kiểm tra lại toàn bộ chứng từ hoá đơn, hàng hoá, con người và phương tiện vận
chuyển trước khi hàng được đưa lên các phương tiện vận chuyển.
- Kịp thời cử nhân viên hoặc người được uỷ quyền đi giám định tổn thất khi nhận
được thông báo tổn thất. Xem xét giải quyết bồi thường nhanh, thoả đáng cho người tham
gia bảo hiểm.
Hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa thường được thực hiện thông qua ba loại hợp
đồng:
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm
Đây là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan ngoài ra trách
nhiệm của các bên liên quan còn phụ thuộc vào điều kiện giao hàng của hợp đồng mua
bán đó là gì.Trong các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERM 2000” (International
Commercial terms) có 13 loại điều kiện giao hàng được phân thành 4 nhóm E, F, C, D.
Cụ thể như sau:
- Nhóm E: EXW (ex- work) giao tại cơ sở của người bán.
- Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả, gồm:
+ FCA (Free carrier): giao hàng cho người vận tải
+ FAS (Free alongside ship): giao hàng dọc mạn tàu
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

điều kiện này người bán sẽ đưa hàng đến cảng, xếp lên tàu. Người mua chịu chi phí và rủi
ro hư hỏng đối với hàng hoá kể từ thời điểm đó.
- Điều kiện CPT: người bán giao hàng cho người chuyên chở do chính người bán chỉ
định và đồng thời người bán phải trả cước phí vận chuyển cần thiết để đưa hàng đến nơi
quy định. Điều này có nghĩa là người mua phải chịu mọi rủi ro và các phí tổn khác phát
sinh sau khi hàng được giao như trên.
- Điều kiện CFR: theo điều kiện này thì người bán giao hàng qua lan can tàu tại cảng
bốc hàng. Người bán phải trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa hàng tới cảng đến
quy định. Sau khi giao hàng thì mọi chi phí cũng như những tổn thất (nếu có) sẽ được
chuyển từ người bán sang người mua.
- Điều kiện EXW: người bán giao hàng cho người mua tại cơ sở của người bán hoặc
địa điểm khác đã được quy định từ trước. Bắt đầu từ thời điểm giao hàng người mua phải
chịu mọi chi phí (kể cả chi phí vận chuyển, bốc dỡ, thông quan xuất khẩu) cũng như tổn
thất xảy ra đối với hàng hoá (nếu có). Điều kiện này thể hiện trách nhiệm của người bán
ở mức tối thiểu.
II. Những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
1. Nguyên tắc chung
2. Đối tượng được bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm này đối tượng bảo hiểm là mọi hàng hoá nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.
Các loại hàng hoá này bao gồm:
- Nguyên vật liệu ban đầu như than, gỗ, dầu thô, các sản phẩm hoá học dạng bột hoặc
dạng nước…
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Các sản phẩm thuỷ sản đông lạnh như tôm, cá…
- Các sản phẩm nông sản thực phẩm (ngũ cốc, rau, hoa quả…)
- Hàng công nghiệp, trang thiết bị và máy móc hoàn chỉnh…

bảo hiểm, hàng hoá được gửi tới một nơi nhận hàng không đúng với địa danh nhận hàng
ghi trong đơn bảo hiểm thì bảo hiểm trong khi giữ nguyên hiệu lực, sẽ không mở rộng
giới hạn qua lúc bắt đầu vận chuyển tới một nơi nhận hàng khác như vậy.
* Trong quá trình vận chuyển nếu xảy ra chậm trễ mà Người được bảo hiểm không
thể tránh được hoặc những trường hợp tàu đi chệch hướng, dỡ hàng bắt buộc, chuyển tải
ngoại lệ hoặc thay đổi hành trình thì hợp đồng bảo hiểm vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều
kiện phải thông báo ngay cho Người bảo hiểm biết về việc xảy ra hoặc thay đổi đó và
phải trả thêm phí bảo hiểm nếu có yêu cầu. Người được bảo hiểm sẽ mất quyền đòi bồi
thường nếu không đáp ứng đúng yêu cầu này.
3.2 Thủ tục bảo hiểm
* Khái niệm: Thủ tục bảo hiểm là những công đoạn mà cả hai bên người tham gia bảo
hiểm và Người bảo hiểm phải thực hiện khi xác định quan hệ bảo hiểm giữa hai bên
thông qua hợp đồng bảo hiểm.
* Thủ tục bảo hiểm bao gồm:
Thứ nhất: Người bảo hiểm phải có nghĩa vụ hướng dẫn Người được bảo hiểm các
thông tin ban đầu về hàng hoá được bảo hiểm và phương thức vận chuyển để trên cơ sở
đó cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải tuyệt đối trung
thực, khai báo đúng mọi chi tiết liên quan đến rủi ro có thể xảy ra của hàng hóa cần bảo
hiểm.
Khi có nhu cầu bảo hiểm, Người được bảo hiểm phải làm giấy yêu cầu bảo hiểm.
Giấy yêu cầu bảo hiểm ghi rõ những thông tin chính sau:
- Tên Người được bảo hiểm
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Tên hàng hoá, loại bao bì, cách đóng gói hoặc mã kí hiệu của hàng hoá được
bảo hiểm
- Khối lượng hàng hoá, số lượng và giá trị hàng hoá được bảo hiểm
- Hành trình vận chuyển (nơi xuất phát, nơi đến, nơi chuyển tải nếu có)
- Tên chủ phương tiện, loại phương tiện, số đăng kí các phương tiện vận

quyền lợi bảo hiểm cũng rất quan trọng đối với Người bảo hiểm.
Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình khai báo sai hoặc giầu giếm những điều đề ra
trong giấy yêu cầu bảo hiểm hoặc không thông báo cho Người bảo hiểm biết những thay
đổi trong quá trình vận chuyển hàng hoá thì Người bảo hiểm có thể không phải bồi
thường tổn thất mà vẫn có quyền nhận phí bảo hiểm.
Trong giao dịch mua bán hàng hoá có thể người bán hoặc người mua đứng ra làm thủ
tục mua bảo hiểm và thuê phương tiện vận chuyển. Trong trường hợp người bán đứng ra
mua bảo hiểm thì Người được bảo hiểm ghi trong HĐBH chính là người bán nhưng trên
thực tế quyền lợi bảo hiểm lại thuộc về người mua hàng. Đây chính là tập quán mua bán
hàng hoá do đó khi mua bảo hiểm người bán hoặc đại diện của họ phải ký hậu ở mặt sau
giấy chứng nhận bảo hiểm để chuyển toàn bộ quyền lợi bảo hiểm sang cho người mua.
Lúc đó, người mua hàng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Người được bảo hiểm đã
quy định trong hợp đồng.
4. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
4.1 Giá trị bảo hiểm
Muốn kí kết được hợp đồng bảo hiểm thì đầu tiên Người bảo hiểm phải xác định được
giá trị của lô hàng mà mình đứng ra bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm (GTBH) là giá trị thực tế của lô hàng trong đó bao gồm cả giá trị
hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác. Trong thực tế
việc xác định giá trị bảo hiểm tại thời điểm xảy ra tổn thất là rất khó khăn nên thông
thường Người bảo hiểm và Người được bảo hiểm thường thoả thuận trước về giá trị hàng
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
hoá trước khi kí hợp đồng bảo hiểm – đó là giá trị bảo hiểm thoả thuận theo qui tắc. Và
các đơn bảo hiểm được cấp theo hình thức này là các đơn bảo hiểm có định giá.
Ngoài ra, đối với hàng hoá thương mại, Người bảo hiểm có thể nhận thêm cả phần lãi
dự tính tức là phần chênh lệch giữa giá mua ở cảng đi và gía bán ở cảng đến (thực ra đây
là lợi nhuận thương mại, không hoàn toàn là giá trị của hàng được bảo hiểm).
GTBH được tính theo giá CIF của hàng hoá bao gồm cả lãi được tính theo công thức:

Công thức tính phí bảo hiểm như sau:
P= S
b
*(1+a)*R
Trong đó:
S
b
- STBH
a - Số % lãi dự tính
R - Tỷ lệ phí bảo hiểm
Nếu chủ hàng mua ngang gía trị:
P=CIF*R (Nếu không bảo hiểm theo lãi dự tính)
Hoặc P=CIF*(1+a)*R (Nếu bảo hiểm thêm phần lãi dự tính a)
Tỷ lệ phí bảo hiểm được ghi trong HĐBH theo thoả thuận giữa Người bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm.
Tỷ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại hàng hoá: Những mặt hàng dễ bị tổn thất hoặc giá trị cao như vàng, bạc, đá
quý, kim cương… dễ bị mất cắp hoặc bị cướp thì tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ cao hơn.
- Loại bao bì: bao bì càng chắc chắn thì tỷ lệ phí càng giảm.
- Phương tiện vận chuyển: tàu càng cũ thì tỷ lệ phí càng cao.
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Hành trình: theo thống kê kinh nghiệm thì những hành trình nào thường gặp nhiều
rủi ro hoặc đi qua những vùng bất ổn như chiến tranh… thì tỷ phí sẽ cao hơn.
- Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm có phạm vi càng hẹp thì tỷ lệ phí bảo hiểm
càng thấp.
Trong một số trường hợp có nguy cơ gia tăng rủi ro (chở hàng trên tàu già, chở hàng
qua vùng có xung đột…) thì tỷ lệ phí bảo hiểm bao gồm hai phần như sau:
R= R

phụ

Về nguyên tắc HĐBH chỉ có hiệu lực khi người tham gia thanh toán hết phí bảo hiểm.
Nếu không có sự thoả thuận trước giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm về
việc nợ phí thì Người bảo hiểm có quyền huỷ bỏ HĐBH hoặc từ chối bồi thường khi có
tổn thất xảy ra.
III. Các loại rủi ro và tổn thất
1.Các loại rủi ro
Khái niệm: Rủi ro là khả năng có thể gây ra những tổn thất cho đối tượng bảo
hiểm. Rủi ro bao gồm: Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm
1.1 Rủi ro được bảo hiểm
Trong bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bẳng đường biển, Người bảo hiểm chỉ
chịu trách nhiệm đối với những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trong phạm vi bảo
hiểm và xảy ra trên biển làm tổn thất đến hàng hoá, phương tiện chuyển chở (tàu, xà
lan…).
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Những tổn thất do những nguyên nhân sau sẽ được Công ty bảo hiểm bồi thường:
a. Rủi ro do động đất, bão lụt, gió lốc, vòi rồng, sóng thần, sét đánh
Bất kỳ những tổn thất nào xảy ra đối với hàng hoá bắt nguồn từ những nguyên nhân
trên đều được bảo hiểm bồi thường bởi vì đây là những thảm hoạ do thiên nhiên gây ra
mang tính bất ngờ và khó tránh khỏi.
Động đất gây thiệt hại cho hàng hoá và phương tiện chuyên chở bằng các chấn động.
Kéo theo động đất có thể là sóng thần, sụt lở…
Bão lụt có thể cuốn trôi tàu và hàng hoá được bảo hiểm. Còn gió lốc, vòi rồng sẽ tạo
ra những cơn sóng thần gây ra thảm hoạ vô cùng to lớn cho các phương tiện vận chuyển
trên biển và hàng hoá chở trên đó.
Sét mang tia lửa điện có thể gây cháy.
b. Rủi ro do cháy hoặc nổ

- Không bên nào có lỗi: đây là trường hợp tổn thất thường do các yếu tố tự nhiên như
bão, sóng thần… khi đó thì tổn thất bên nào thì bên đó chịu.
- Lỗi từ một phía: bên có lỗi phải có trách nhiệm bồi thường cho bên kia.
- Hai bên cùng có lỗi: do sơ suất hoặc không chú ý.
d. Rủi ro do tàu bị đắm hoặc mắc cạn
- Rủi ro mắc cạn: Mắc cạn là trường hợp tàu bị đâm vào một trướng ngại vật như đá
ngầm, cọc… làm cho tàu không thể chạy được nữa và cần sự giúp đỡ của bên ngoài. Vì
vậy, mắc cạn thường xảy ra bất ngờ nên thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. Nhưng việc
phân định trường hợp nào là mắc cạn và trường hợp nào không phải là mắc cạn là rất
quan trọng. Chẳng hạn, như tàu bị chạm đáy do nước thuỷ chiều xuống và phải chờ thuỷ
chiều lên để tiếp tục hành trình thì đó không phải là mắc cạn. Tuy nhiên, trường hợp tàu
tránh bão phải vào cảng lúc thuỷ chiều xuống hoặc thuyền trưởng quyết định lái tàu vào
chỗ nước cạn thì lại được coi là mắc cạn.
Rủi ro do đắm: Đắm là trường hợp tàu bị chìm hẳn xuống nước, không hoạt động
được nữa và tất nhiên là hành trình không hoàn thành. Khi đó, nước sẽ chàn vào tàu gây
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
tổn thất cho hàng hoá thì lúc đó thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. Tuy nhiên, trong thực tế
khi tàu bị lật úp, không bị đắm nhưng hàng hóa vẫn bị tổn thất thì bảo hiểm cũng bồi
thường.
e. Rủi ro đặc biệt như chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp biển, bắt giữ, tịch thu…
1.2 Những rủi ro loại trừ
Đây là những rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm nhưng không thuộc trách
nhiệm bảo hiểm, Người bảo hiểm sẽ không có trách nhiệm bồi thường tổn thất và các chi
phí khác do những rủi ro này gây ra trừ trường hợp có sự thoả thuận từ trước.
* Những rủi ro sau đây không thuộc nhiệm của Người bảo hiểm nếu không được sự
thoả thuận khác:
a. Những mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa, phản loạn hoặc quần chúng nổi dậy

hoặc không thích hợp và do việc xếp hàng hỏng lên tàu.
f. Hàng hoá được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng hay giảm thể
tích thông thường hoặc hao mòn tự nhiên.
g. Xếp hàng quá tải hoặc xếp hàng sai quy cách, không đảm bảo an toàn cho hàng khi
vận chuyển.
h. Những mất mát, hư hỏng hay chi phí phát sinh do chủ tàu, người quản lý, người
thuê hay người điều hành không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính gây ra.
i. Hàng hoá trở quá điểm kết thúc chuyến hành trình được ghi trên HĐBH
j. Trộm cắp, không giao hàng.
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2. Các loại tổn thất và chi phí liên quan
2.1 Các loại tổn thất
Khái niệm: Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá XNK là những thiệt hại, hư hỏng của
hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra. Khi tổn thất xảy ra sẽ làm phát sinh trách nhiệm
vật chất của bảo hiểm.
Một số căn cứ để phân loại tổn thất:
2.1.1 Căn cứ vào mức độ và quy mô của tổn thất thì có hai loại: Tổn thất bộ phận và
Tổn thất toàn bộ.
a. Tổn thất bộ phận (Partial Loss)
Tổn thất bộ phận (TTBP) là tình trạng một phần hàng của từng chủ hàng được thu xếp
theo từng đơn bảo hiểm theo một HĐBH bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại.
Tổn thất bộ phận có thể là:
- Giảm về trọng lượng: do các nguyên nhân như bao bì bị hỏng, rách làm thiếu hụt
hàng hóa.
- Giảm về số lượng: mất một số bao, kiện, thùng, hòm.
- Giảm về thể tích: các loại hàng hoá như dầu, xăng bị rò rỉ ra ngoài.
- Giảm giá trị hàng hoá được bảo hiểm có thể một phần hoặc toàn bộ hàng hoá.
- Tổn thất toàn bộ một phần hàng hóa.

hàng hoá khi tới nơi nhận.
Tất cả những trường hợp tổn thất hoặc mất mát không thuộc hai trường hợp trên đều
được coi là tổn thất bộ phận.
2.1.2 Căn cứ vào quyền lợi và trách nhiệm của bảo hiểm thì tổn thất được chia
thành: tổn thất riêng và tổn thất chung.
a. Tổn thất riêng (Particular Average)
Tổn thất riêng là tổn thất xảy ra một cách ngẫu nhiên bất ngờ và chỉ ảnh hưởng tới
quyền lợi của từng chủ hàng và chủ tàu trong chuyến hành trình. Do đó, tổn thất riêng
xảy ra với bên nào thì bên đó phải tự chịu.
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Nhà bảo hiểm không những phải có trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất riêng
được bảo hiểm mà còn phải chi trả cho những chi phí liên quan đến tổn thất riêng này
nhằm hạn chế tổn thất thêm hoặc làm hỏng hàng hoá khác. Những chi phí tổn thất riêng
có thể là chi phí xếp dỡ, gửi hàng, đóng gói lại, thay thế bao bì… ở bến khởi hành hoặc
dọc đường. Những chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất đối với hàng hoá trước khi được
vận chuyển sẽ không được coi là chi phí tổn thất riêng.
Nhà bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoá chứ không chịu trách nhiệm đối
với bao bì bên ngoài, nếu trong quá trình vận chuyển từ nơi điểm xuất phát đến điểm cuối
cùng mà bao bì bị rách, hỏng mà hàng hoá vẫn còn nguyên vẹn sẽ không được bảo hiểm.
d. Tổn thất chung (General Average)
Tổn thất chung (TTC) xảy ra trong những trường hợp đặc biệt xuất phát từ một việc
làm tự nguyện có chủ định gọi là hành động TTC nhằm cứu một tổn thất lớn hơn có thể
xảy ra liên quan đến tất cả các bên có mặt trong chuyến hành trình. Vì vậy, TTC ảnh
hưởng đến quyền lợi của tất cả các đối tượng trên tàu nên việc đóng góp vào TTC là
nghĩa vụ của tất cả mọi người trên tàu.
Theo quy tắc YORK ANTWERP 1994 thì TTC trong bảo hiểm hàng hoá XNK bằng
đường biển phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Chỉ xảy ra trên biển

Bước 2: Xác định giá trị chịu phân bổ tổn thất chung của các bên (G
ci
). Trong bước
này có hai cách xác định:
Cách 1:
G
ci
= -
= Giá trị tàu (hàng) tổn thất riêng
Cách 2:
G
ci
= + +
Sv: bïi ngäc tó líp bh43A
25
Giá trị hàng
(tàu) trước khi
rời bến
Giá trị tổn thất
riêng xảy ra
trước TTC
Giá trị tổn thất riêng
xảy ra trước TTC
Giá trị hàng
(tàu) trước khi
về đích
Giá trị tàu
(hàng) thiệt
hại trong TTC
Giá trị tổn thất


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status