Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua - Pdf 79

Chuyên đề tốt nghiệp
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT HAY SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT
1. DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
2. GTBH : Giá trị bảo hiểm
3. STBH : Số tiền bảo hiểm
4. HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm
5. TTC : Tổn thất chung
6. TTR : Tổn thất riêng
7. TTTB : Tổn thất toàn bộ
8. TTBP : Tổn thất bộ phận
9. XNK : Xuất nhập khẩu
1
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) vận chuyển
bằng đường biển chiếm khoảng gần 90% tổng khối lượng hàng hoá của thế
giới. Do loại hình vận chuyển này có cước phí rẻ, lại vận chuyển được một
khối lượng lớn với đủ mọi chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên vận chuyển bằng
đường biển thường gặp rất nhiều loại rủi ro gây nên tổn thất, cho nên đã từ lâu
bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển trở thành tập quán
thương mại quốc tế. Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển ra
đời không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho các chủ hàng mà còn góp
phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có tốc độ tăng trưởng khá
cao. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến vai trò của
hoạt động XNK hàng hóa. Với đặc điểm địa lý của nước ta có hơn 3.000 km
bờ biển, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Điều này rất thuận lợi
cho hoạt động ngoại thương với các nước trên thế giới, nhất là hoạt động
XNK hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đây là cơ hội cho các doanh

1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển
Việc thông thưong buôn bán hàng hóa đóng vai trò quan trọng đối với
mỗi quốc gia. Để vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu người ta sử dụng
nhiều thông thươngphương thức khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường
biển, đường hàng không… Nhưng đến nay, vận tải đường biển vẫn giữ một vị
trí quan trọng trong các phương thức vận tải hàng hóa. Có được vai trò quan
trọng như vậy là do vận tải biển có những ưu điểm vượt trội như:
- Chi phí cho việc xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng các tuyến đường biển
thấp vì hầu hết là những tuyến giao thông tự nhiên (trừ các cảng biển).
- Năng lực chuyên chở của phương tiện vận tải biển thường rất lớn: một
tuyến có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả
hai chiều, đồng thời phương tiện vận tải biển có thể chở được hầu hết các loại
hàng hóa với khối lượng lớn. Vận tải bằng đường biển còn tỏ ra đặc biệt có
ưu thế trong việc vận chuyển nhiều loại hàng hóa khác nhau, đặc biệt là khả
năng sử dụng để vận chuyển các container chuyên dụng.
- Cước phí vận chuyển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác, ví
dụ: cước phí trung bình vận chuyển cùng một loại hàng hóa bằng đường hàng
không là 7$/kg, trong khi vận chuyển bằng đường biển là 0,7$/kg.
- Vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển mối quan hệ kinh tế
với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của Nhà nước, góp phần
tăng thu ngoại tệ…
4
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển
- Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa, bão,lũ

thông qua bảo hiểm - hình thức phân tán rủi ro theo nguyên tắc số đông bù số
ít.
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ra đời từ rất sớm, được thừa nhận,
được ủng hộ và phát triển không ngừng. Đến nay, bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã có bề dày lâu năm và đến nay đã
trở thành tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
2.1. Các loại rủi ro
Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển
gây ra làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở.
Trong hoạt động hàng hải có nhiều loại rủi ro khác nhau làm thiệt hại
đến hàng hóa và phương tiện vận chuyển. Người ta có thể phân loại rủi ro dựa
trên các căn cứ khác nhau:
* Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất, rủi ro được chia ra làm 3
loại:
- Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sóng thần, thời tiết
quá xấu.
- Rủi ro do tai nạn bất ngờ ngoài biển như: bao gồm rủi ro do mắc cạn,
chìm đắm, mất tích, đam va với tàu khác.
- Rủi ro do con người gây ra: các rủi ro như ăn trộm, ăn cắp, chiến
tranh, đình công, bắt giữ, tịch thu…
* Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia làm 3 loại:
Loại 1: Những rủi ro thông thường được bảo hiểm, bao gồm:
- Rủi ro mắc cạn: Tàu bị chạm đáy vào chướng ngại vật nào đó mà
không thể tiếp tục hành trình được nữa.
- Rủi ro chìm đắm: Do nguyên nhân nào đó mà tàu bị chìm xuống biển
hoặc bị đắm do sóng thần, bão tố, không thể tiếp tục hành trình được nữa,
hàng hóa trên tàu bị hư hại.
6

của hàng hóa nhưng chưa ở mức độ mất hoặc giảm hoàn toàn. Tổn thất bộ
phận được chia ra 4 trường hợp sau:
7
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
7
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giảm về số lượng: Hàng hóa bị thiếu bao thiếu kiện.
- Giảm về trọng lượng: Hàng hóa còn nguyên bao nhưng bị mốc rách.
- Giảm về thể tích.
- Giảm về giá trị: Số lượng, trọng lượng của hàng hóa có thể còn
nguyên nhưng giá trị thì không còn được như lúc đầu, ví dụ như trường hợp
lương thực thực phẩm bị ngấm nước dẫn đến mốc, ẩm…
Có hai loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn
bộ ước tính.
- Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo một hợp
đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng
không còn như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy
lại được nữa. Chỉ có tổn thất toàn bộ thực tế trong 4 trường hợp sau đây:
+ Hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn
+ Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được
+ Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm
+ Hàng hóa ở trên tàu được tuyên bố là mất tích.
- Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng bảo hiểm bị thiệt
hại, mất mát chưa tới mức độ toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn
thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí cứu chữa thì chi phí cứu chữa
có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Khi gặp trường hợp này tốt nhất
chủ hàng sẽ thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho
các bên và quyền sở hữu lô hàng này thuộc về bảo hiểm.
* Căn cứ vào quyền lợi bảo hiểm: Tổn thất được chia làm 2 loại:
• Tổn thất riêng: là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số

trong việc cứu tàu và hàng hóa thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục
hành trình. Chi phí tổn thất chung bao gồm: chi phí cứu nạn, chi phí làm nổi
tầu khi bị mắc cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu khi bị nạn.
3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm
9
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Cũng như các nghiệp vụ khác, việc xác định đúng đối tượng bảo hiểm
sẽ cho phép giải quyết bồi thường một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong
hoạt động xuất nhập khẩu thì hàng hóa có nhiều khả năng gặp rủi ro cho nên
các thương gia phải mua bảo hiểm cho hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển. Như vậy, đối tượng của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển là các hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ở Việt Nam, căn cứ vào Quyết định số 254/TCCDBN ngày 25/5/1990
của Bộ Tài chính, hàng hóa xuất nhập khẩu hoạt động trong vòng nội thủy và
hàng hải Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể tham gia
bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm được Bộ Tài chính cấp giấy phép hoạt
động.
b. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn
trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Hàng hóa được bảo hiểm theo điều kiện
nào thì chỉ những rủi ro tổn thất qui định trong điều kiện đó mới được bồi
thường. Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì những rủi ro được bảo hiểm càng
nhiều và kéo theo mức phí lớn.
3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
a. Giá trị bảo hiểm

Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo
hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực
chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn
giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì
người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi
thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro
cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm.
Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm.
c. Phí bảo hiểm
11
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm phải trả
cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo
hiểm gây ra.
Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác xuất rủi ro gây ra tổn thất
hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang rải bồi thường và đảm
bảo có lãi. Căn cứ thứ hai rất quan trọng khi tính phí là giá trị bảo hiểm hoặc
số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
P = S
b
x (a+1) x R
(nếu bảo hiểm có lãi dự tính)
P = S
b
x R

a1. Điều kiện bảo hiểm WA (With Particularr Average) - (Điều kiện bảo
hiểm tổn thất riêng).
Theo điều kiện bảo hiểm này, công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường
và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi do chiến
tranh, đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng tác chi phí để đạt mức miễn thường, chi tính tổn thất thực
tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
- Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức tiền thưởng có lợi
nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
a3. Điều kiện bảo hiểm AR (All Ricks) - (Điều kiện bảo hiểm mọi rủi
ro)
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất
và chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ.
Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
b. Các điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982
b1: Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C - ICC-C)
Nhìn chung,điều kiện bảo hiểm này giống điều kiện bảo hiểm miễn tổn
thất riêng (FPA) năm 1963. Những điều kiện bảo hiểm ICCC này không phải
bồi thường tổn thất do mất nguyên kiện hàng và cũng không phân biệt TTTB
hay TTBP.
b2. Điều kiện bảo hiểm B (ICC.B)
13
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo điều kiện bảo hiểm này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều
kiện C, công ty bảo hiểm còn bồi thường tổn thất đối với hàng hóa được bảo

Chuyên đề tốt nghiệp
hóa XNK lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một
HĐBH bao.
Nhìn chung, trong HĐBH thường có những nội dung chủ yếu sau:
+ Ngày cấp đơn bảo hiểm
+ Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm
+ Tên hàng được bảo hiểm
+ Số lượng, trọng lượng của hàng
+ Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển
+ Cảng khởi hành, cảng chuyển tải và cảng cuối
+ Ngày khởi hành
+ Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
+ Điều kiện bảo hiểm
+ Phí bảo hiểm.
3.5. Giám định và bồi thường tổn thất
Giám định là việc làm của nhà bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể cử nhân
viên của mình đi giám định hoặc ủy quyền cho người khác. Trong quá trình
giám định phải làm rõ các vấn đề sau:
- Nguyên nhân gây ra tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không?
- Quy mô và mức độ tổn thất
- Mức miễn thường (nếu có)
Đối với những hàng hóa đặc chủng việc giám định đôi khi khó khăn
phức tạp. Vì vậy một số nhà bảo hiểm phải thuê giám định viên chuyên
ngành.
Sau khi giám định xong, cán bộ giám định sẽ cấp giấy chứng nhận giám
định cho chủ hàng, trong đó ghi đầy đủ những thông tin như thời gian, địa
điểm giám định, mức độ tổn thất, người giám định…
Dựa vào biên bản và giấy chứng nhận giám định nhà bảo hiểm tiến
hành bồi thường theo các nguyên tắc sau:
15

bảo hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường
không có sự cạnh tranh.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những
năm cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển
của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng
trước yêu cầu đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn
định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nghị định
100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã
được ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
theo hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát
triển, nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự cạnh tranh
17
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
17
Chuyên đề tốt nghiệp
gay gắt giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng doanh thu phí.
Nhiều vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ nảy đã ảnh hưởng đến
hoạt động của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã
hội. Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2004. Sau khi Luật này được ban hành,
Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm
phát huy tối đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước đầu tiên được thành
lập sau Nghị định 100/CP. Ra đời trên cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tạ
thành phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là
Bảo Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép

nhưng vẫn được Công ty quan tâm phát triển.
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng Phi hàng hải
Phòng Quản lý đại lý
Phòng Tài sản kỹ thuật
Phòng Hàng hải
Phòng
Tổ chức hành chính
Phòng
Kế toán thống kê
Phòng khai thác 1
Phòng khai thác 2
Phòng khai thác 3
Phòng khai thác 8
Phòng khai thác 9
Phòng khai thác 10

19
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Đứng đầu Công ty là Giám đốc (do Tổng giám đốc bổ nhiệm), chịu
trách nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh, tổ chức quản lý. Hai phó giám đốc
quản lý từng phần nghiệp vụ của các phòng ban, giúp đỡ Giám đốc giải quyết
các vụ việc liên quan từng phần nghiệp vụ.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập vận chuyển bằng đường biển ở
Bảo hiểm Hà Nội do phòng Hàng hóa đảm nhiệm.
* Phòng Hàng hải có các nhiệm vụ sau:
- Hướng dẫn và chỉ đạo khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói
trên cho các phòng thuộc Tổng Công ty theo phân cấp của Tổng Giám đốc.

nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường bảo
hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của khâu này mà hầu hết các công ty bảo
hiểm phải lập ra các chiến lược khai thác. Công việc khai thác càng trở nên
khó khăn hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước
tình hình đó đòi hỏi các công ty phải thực hiện tốt khâu khai thác. Đối với
Bảo Minh Hà Nội mục tiêu và cũng là thước đo hiệu quả của khâu khai thác
là xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
ổn định lâu dài và tăng trưởng cao.
21
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Để thực hiện tốt khâu khai thác Bảo Minh Hà Nội thường tiến hành
theo các bước: lập kế hoạch, xác định các biện pháp khai thác, tổ chức khai
thác, đánh giá rút kinh nghiệm.
Trước hết, vào đầu năm phòng hàng hải tiến hành thu thập thông tin về
kim ngạch XNK như chủng loại hàng hóa, số lượng hàng hóa của từng công
ty XNK tại Hà Nội. Từ đó sẽ tập hợp số liệu để lập kế hoạch khai thác và định
mức thu phí trong năm cho từng đối tượng.
- Khách hàng là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của
công ty bảo hiểm. Khách hàng của công ty thường có 2 loại: Khách hàng cũ
và khách hàng mới.
Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên
phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện, lượng khách
hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một
công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỷ lệ cao chứng tỏ
chất lượng dịch vụ của công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp.
Đối với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm
hiểu về loại hàng và nhu cầu tham gia bảo hiểm của họ, giúp họ hiểu hơn về
sản phẩm mà công ty có thể cung cấp. Từ đó thuyết họ tham gia bảo hiểm cho

điện kèm theo các tài liệu giải thích cho khách hàng hiểu.
- Chấp nhận bảo hiểm: Sau khi kiểm tra hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, phân
tích số liệu thống kê, phân tích khả năng tài chính của khách hàng, đánh giá
rủi ro nếu thấy đạt yêu cầu thì Công ty quyết định bảo hiểm, đồng thời thỏa
thuận thời gian giao kết hợp đồng chính thức.
c. Cấp đơn bảo hiểm
Khi đã đồng ý bảo hiểm, khai thác viên vào sổ cấp đơn, số đơn bảo
hiểm được lấy theo số thứ tự trong sổ. Tiếp theo tiến hành tính số tiền bảo
hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể yêu cầu bảo hiểm theo
một trong các giá trị: FOB, CF, CIF và thêm vào đó tỷ lệ lãi ước tính.
Công ty Bảo Minh Hà Nội được phép chủ dộng nhận bảo hiểm cho
những hàng hóa xuất nhập khẩu có số tiền bảo hiểm dưới 6 triệu USD. Khi áp
23
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
23
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng các điều khoản biểu phí, quy định, hướng dẫn hiện hành của Tổng Công
ty, nếu thấy cần điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế công ty sẽ trình
đơn xin ý kiến chỉ đạo của Tổng Công ty và chỉ được thực hiện khi Tổng
Công ty chấp nhận
Việc xác định tỷ lệ phí không chỉ dựa vào kết quả của tính toán, thống
kê hay các quy định phổ biến trên thế giới, mà để đáp ứng được yêu cầu của
tình hình thực tế, chi nhánh còn thường xuyên theo dõi sự biến động của thị
trường, khách hàng nhằm đưa ra mức phí cạnh tranh hợp lý. Việc điều chỉnh
này không những đảm bảo được lợi ích kinh doanh của công ty mà còn nâng
cao ý thức trách nhiệm cũng như hiệu suất công việc của cán bộ làm công tác
bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Mặt khác
đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Có thể thấy sự thay đổi linh hoạt của tỷ
lệ phí thông qua bảng sau:
Bảng 1: Doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển

thực sự không mấy khả quan đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
Kim ngạch hàng xuất tăng vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng chiến lược
của n như dầu thô, thủy sản, dệt may… mà tất cả các mặt hàng này hầu hết
phía người mua đều là người quyết định đối với các dịch vụ về vận tải và bảo
hiểm.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng nhập vẫn đạt thấp so với kế hoạch đề ra cho
phòng Hàng Hải chưa có sự nỗ lực đầu tư, quan tâm thích đáng vào việc mở
rộng quan hệ tìm kiếm những khách hàng nhập khẩu mới .
- Phí thu bảo hiểm của phòng Hàng Hải tập trung chủ yếu vào các
khách hàng cũ truyền thống mà các khách hàng này trong năm 2008 khó khăn
trong việc xuất nhập khẩu. Trong khi đó doanh thu phí của nghiệp vụ này ở
các phòng khai thác khu vực chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với doanh thu của phòng
Hàng Hải. Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
25
Hoàng Thị Bạch Dương Lớp: Q12H
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status