GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH HÀNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH TÍCH HỢP HỆ THỐNG CMC - Pdf 12

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI & KINH TẾ QUỐC TẾ
------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
§Ò tµi:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
HÀNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH TÍCH HỢP HỆ THỐNG
CMC
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Chuyên nghành : QTKD Thương mại
Lớp : Thương mại 47B
Khoá : 47
Hệ : Chính quy
Giáo viên hướng dẫn : Ts.Trần Văn Bão
Hµ néi - 06/2009
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TRNG I HC KINH T QUC DN
KHOA THNG MI & KINH T QUC T
------
LUN VN TT NGHIP
Đề tài :
GII PHP NNG CAO HIU QU KINH DOANH HNH
NHP KHU CA CễNG TY TNHH TCH HP H THNG
CMC
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Chuyên ngành : QTKD Thơng mại
Lớp : Thơng mại 47B
Khoá : 47
Hệ : Chính quy
Giáo viên hớng dẫn : TS. Trần Văn Bão

tỷ trọng khá lớn trong toàn công ty. Chính vì vậy trong đợt thực tập tốt nghiệp này
cùng với những kiến thức được trang bị tại trường đại học và sự giúp đỡ của thầy
giáo Trần Văn Bão, các cán bộ nhân viên trong công ty nên em xin chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của công
ty TNHH tích hợp hệ thống CMC”.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Nhằm hoàn thiện hơn hoạt động kinh
doanh nhập khẩu mà công ty đang áp dụng. Từ đó đưa ra một số giải pháp để công ty
có thể áp dụng. Đồng thời rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong việc thực hiện tổ
chức hoạt động kinh doanh nhập khẩu trên thực tế.
Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu: Dựa trên những cơ sở lý luận và
thực tiễn liên quan đến công tác tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu
của công ty cùng với những kiến thức đã học.
Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp những kiến thức đã học ở trường và sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo cùng với những kinh nghiệm thực tế khi tham gia
thực tập tại công ty (CSI). Đồng thời sử dụng nguồn số liệu của công ty để phân tích,
đánh giá và đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hoạt
động kinh doanh nhập khẩu tại công ty (CSI).
Kết cấu luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Những lý luận chung về hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty (CSI).
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh hàng nhập khẩu của Công ty.
Trong quá trình nghiên cứu và viết về đề tài này không tránh khỏi những thiếu
sót, mong thầy cô giáo và bạn đọc thông cảm, đóng góp ý kiến để hoàn thiện hơn. Đề
tài này được sự giúp đỡ cuả thầy giáo Trần Văn Bão và các anh, chị trong Phòng
Phân phối dự án của Công ty TNHH tích hợp hệ thống CMC.
Hà nội, tháng 6 năm 2009

được cải thiện do cung cấp đầy đủ hàng hóa, dịch vụ tốt, nâng cao hiệu qủa sản xuất,
tiêu dùng.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển
dịch kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo
một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng
của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ở đây
nhập khẩu vừa thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm
bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể
hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận
lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nứớc nhập khẩu.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh do đó nền sản xuất trong nước muốn tồn tại
và pháp triển phải nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tạo ra
sự cạch tranh giữa hàng nội và hàng ngọai tức là đã tạo ra động lực buộc các nhà sản
xuất trong nứớc phải không ngừng vươn lên.
- Nhập khẩu làm xóa bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế
đóng, chế độ tự cung tự cấp.Hơn thế nhập khẩu tranh thủ khai thác tiềm năng về hàng
hóa, vốn cộng nghệ của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp hoàn cảnh của
nước ta.
- Nhập khẩu làm tăng khả năng tiêu dùng, đa dạng hóa mặt hàng chủng loại,
quy cách, cho phép thỏa mãn tốt hơn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự
chuyển giao công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm
được chi phí và thời gian, tạo ra sự phát triển đồng đều trong xã hội.
Thông qua việc phát triển kinh doanh nhập khẩu, chúng ta có điều kiện mở
mang dân trí, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới của nhân loại. Có như vậy chúng

chưa có khả năng nghiên cứu và sản xuất. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc
thiết bị và công nghệ cần thiết cho nền kinh tế có thể đem đến cho chúng ta cơ hội
phát triển những nghành tiềm năng, là động lực ban đầu để nâng cao xuất khẩu hàng
hoá với chất lượng cao, mẫu mã phong phú.
1.1.2 Sự cần thiết hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Thương mại quốc tế coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển kinh tế
trong nước trên cơ sơ lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên
môn hóa quốc tế. Vậy thương mại quốc tế là gì?
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước
thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa, dịch vụ
là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ riêng biệt của các
quốc gia.
Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý nghĩa sống còn đối với các nước
tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn
và chủng loại phong phú hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn
khả năng sản xuất trong điều kiện đóng cửa nền kinh tế của nước đó. Hay có thể nói
cách khác là thương mại quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước.Bên
cạnh đó nó cũng cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu các nghành nghề kinh tế, cơ
cấu vật chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình hơn.
Hiện nay trong điều kiện quốc tế hóa đời sống thế giới trở nên sâu rộng hơn bao giờ
hết và khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cho phép
có thể phân chia các công đoặn của quá trình sản xuất thành các khâu khác nhau và
phân bổ ở những vị trí cách xa nhau thì không một nước nào có thể đóng cửa nền
kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập tách khỏi mối quan hệ cùng có lợi
với thế giới bên ngoài và đồng thời phải chịu những ràng buộc nhất định.
Trước đây, thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bằng các hiệp định

thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế nhằm
mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định
nâng cao mức sống của nhân dân. Do vậy, Xuất nhập khẩu là họat động kinh tế đối
ngoại dễ đem lại cho hiệu quả đột biến rất cao, hoặc có thể gây ra thiệt hại vì nó phải
đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể chủ thể tham gia trong
nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Vì vậy chúng ta cần nâng
cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói
riêng.
1.2 Nội dung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nó
có những nét đặc trưng riêng, phức tạp hơn rất nhiều so với trao đổi hàng trong nước.
Cho nên để kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả cao nhất thiết cần phải nghiên cứu và
thực hiện tốt các khâu nghiệp vụ từ nghiên cứu tiếp cận thị trường; xây dựng phương
án nhập khẩu cũng như tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng hóa. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và
đặt trong mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
1.2.1 Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, lựa chọn mặt hàng và đối tác
kinh doanh.
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông
hàng hóa, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Ta có thể
hiểu thị trường theo hai góc độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hóa
– tiền tệ. Theo cách khác, thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán
và cung có khả năng đáp ứng.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới có rất nhiều ý nghĩa quan trong việc
phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác xuất
nhập khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững

vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ). Nghiên
cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, kể cả
lượng dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng. Cùng với việc
xác định, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao
gồm: việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay thế, khả
năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tùy theo diễn biến của
tình hình, do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.
Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có thể chia làm 3 loại:
Loại 1: Là các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất
chu kỳ. Đó là sự khủng hoảng có tính chu kỳ của kinh tế TBCN và tính chất thời vụ
trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Sự vận động của tình hình kinh tế
TBCN là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tới tất cả các thị trường hàng hóa trên thế
giới. Sự ảnh hưởng này có thể hiện trên phạm vi thế giới, khu vực, phải lưu ý phân
tích sự biến động đó trong các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường. Nhân tố thời
vụ của sản xuất cũng có ảnh hưởng đến thị trường hàng hóa. Do đặc điểm của sản
xuất, lưu thông các loại hàng khác nhau nên sự tác động của nhân tố này rất đa dạng
với các mức độ khác nhau.
Loại 2: Là nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của
Nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng,
khả năng sản xuất hàng thay thế.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Loại 3: là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như
hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên
tai, bão lũ và hạn hán, động đất ,…,các yếu tố về chính trị xã hội như đình công,…
Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của lượng thị trường. Khi
nghiên cứu phải thấy rõ nhân tố nào có ảnh hưởng quyết định đến xu hướng vận
động của thị trường trong từng giai đoạn. Chỉ như vậy thì hoạt động thương mại quốc

đối với một loại hàng hóa nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó phải là giá cả
những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt
nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Xu hướng vận động của giá cả các
loại hàng trên thế giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian, gía cả hàng hóa có thể
biến động theo những xu hướng trái ngược nhau với những mức độ ít nhiều khác
nhau. Hơn nữa, thị trường thế giới có phạm vi rộng với nhiều vùng, nhiều khu vực
khác nhau nên việc nắm bắt tình hình và xu hướng biến động của giá cả thị trường
thế giới là hết sức khó khăn đòi hỏi phải có nhiều thông tin. Các nhân tố tác động đến
giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới có nhiều và có thể phân loại theo nhiều cách
khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng đến
giá cả thị trường và thế giới:
- Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế là nhân tố cơ
bản ảnh hưởng tới sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng.
- Nhân tố lũng đoạn của các công ty siêu quốc gia. Đây là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sự hình thành và biến động của giá cả trong giai đoạn hiện nay. Lũng
đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá với cùng một loại hàng hoá thậm chí trên cùng một
thì trường. Thị trường thế giới có giá lũng đoạn cao và giá lũng đoạn thấp.
- Nhân tố cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau
tuỳ thuộc vào cuộc cạnh tranh là người mua hay người bán. Cạnh tranh giữa những
người bán, Cạnh tranh giữa những người mua, Cạnh tranh giữa người mua và người
bán
- Nhân tố cung cầu: là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của
giá cả hàng hoá. Nếu cung vượt quá cầu thì sẽ thuc đẩy xu hướng giảm giá và ngược
lại.
- Nhân tố lạm phát gía cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị
của hàng hoá mà còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Trên thị trường thế giới, giá cả
được biểu hiện bằng đồng tiền của những nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch
quốc tế.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
11

là để giải quyết các vấn đề có liên quan đến các bên. Bản chất của đàm phán kinh
doanh: là đàm phán kinh doanh lấy lợi ích kinh tế đạt được là mục đích cơ bản, giá cả
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
là hạt nhân của đàm phán, đàm phán kinh doanh chứa đựng những xung đột của lợi
ích, đàm phán không phải là sự lựa chọn đơn nhất “hợp tác” và “xung đột” mà là mâu
thuẫn thống nhất giữa “hợp tác” và “xung đột”, đàm phán không phải là thoả mãn lợi
ích của mình một cách không hạn chế mà là có giới hạn lợi ích nhất định.
Trong thương mại quốc tế có 3 hình thức đàm phán:
- Đàm phán qua thư tín dụng: là hình thức mà qua thư từ gửi bằng bưu điện,
telex, fax hoặc email, người mua và người bán đàm phán và thoả thuận với nhau
những điều khoản cần thiết của một hợp đồng.
- Đàm phán qua điện thoại: là hình thức qua đường dây điện thoại quốc tế,
người mua và người bán thực hiện giao dịch đàm phán với nhau để đi đến ký kết hợp
đồng ngoại thương.
- Phương pháp gặp gỡ trực tiếp để đàm phán: là hình thức đàm phán có ưu
điểm so với cả hai cách thức đàm phán qua thư từ và điện thoại.
Quy trình thực hiện HĐNT:
Thực tế có nhiều công việc cần làm để thực hiện một cuộc đàm phán HĐNT.
Tuy nhiên ta chỉ nghiên cứu hai phương thức đàm phán trực tiếp và phương thức giao
dịch bằng thư từ.
+ Với phương thức đàm phán trực tiếp:
a, Giai đoạn chuẩn bị đàm phán: trong giai đoạn này thông thường các nhà
kinh doanh cần thực hiện 5 công việc cụ thể như sau: nghiên cứu thông tin, lập
phương án đàm phán, tổ chức đoàn đàm phán, chuẩn bị thời gian, địa điểm.
b, Tiến hành đàm phán thử: sau khi đã có sự chuẩn bị nên gặp gỡ hoặc trao đổi
qua thư từ, điện thoại để thử đàm phán nhằm thăm dò thái độ, quan điểm của bên đối
tác, có dịp hiểu thêm về đối tác thì khả năng trong đàm phán sẽ càng chắc chắn hơn.
c, Thực hiện tiếp xúc đàm phán tạo không khí hữu nghị và tin cậy sẽ giúp cho

trình thực hiện hợp đồng bao gồm:
- Xin giấy phép nhập khẩu: Giấy phép xuất, nhập khẩu là một biện pháp quan
trọng để Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì vậy, sau khi ký kết hợp đồng nhập
khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Hiệp
định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu (ILP) chia giấy phép thành hai loại: Tự
động và không tự động. Giấy phép nhập khẩu tự động được cấp dưới hình thức xác
nhận đăng ký nhập khẩu của doanh nghiệp cho mỗi lô hàng. Doanh nghiệp có hàng
hóa nhập khẩu thuộc danh mục phải gửi cho Bộ Công thương một bộ hồ sơ đề nghị
cấp giấy phép nhập khẩu tự động gồm gần 10 chứng từ có liên quan. Doanh nghiệp
nộp bộ hồ sơ này qua đường bưu điện hoặc nộp trực tiếp tại Phòng Văn thư của Bộ
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Công thương (không nộp trực tiếp cho cán bộ cấp phép). Trong vòng 10 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Công thương sẽ cấp
giấy phép theo chế độ tự động cho doanh nghiệp. Giấy phép không tự động, thường
được dùng để quản lý các hạn chế số lượng, phải được cấp trong khoảng thời gian tối
đa là 30 ngày kể từ khi nhận được đơn xin cấp giấy phép theo nguyên tắc ''đến trước
- cấp trước'', và 60 ngày nếu tất cả các đơn xin cấp giấy phép được xem xét cùng một
lúc.
- Mở thư tín dụng L/C theo yêu cầu của bên bán ( nếu có )
Khi hợp đồng NK quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C, một trong các công
việc đầu tiên mà bên nhập khẩu phải làm để thực hiện hợp đồng đó là việc mở L/C.
Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định thì phụ thuộc vào thời gian
giao hàng, thường thì mở trong khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời hạn giao
hàng.
- Thuê phương tiện vận chuyển:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở
hàng được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng mua bán
ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao

yếu sau: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết,
hợp đồng.
Bước 2: Xuất trình hàng hoá: hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự
thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở,
đóng các kiện hàng. Yêu cầu của việc xuất trình hàng hoá cũng là sự trung thực của
chủ hàng.
Bước 3: Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra quyết định như:
cho hàng được phép ngang qua biên giới, lưu kho ngoại quan hàng không được
nhập… Nghĩa vụ của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó.
- Giao nhận hàng hoá dưới tàu: Đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp
hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận tiến hành: ký kết hợp đồng uỷ
thác cho cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng từ tàu ở nước ngoài về. Xác nhận với
cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng năm, từng quý … cung cấp
các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá. Thông báo cho các đơn vị trong
nước đặt mua hàng nhập khẩu về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về
bến cảng. Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp,
bảo quản. theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải, lập những biên bản về
hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Kiểm tra số lượng, chất lượng hàng nhập khẩu: cơ quan giao thông phải
kiểm tra niêm phong cặp chì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Nếu hàng
có thể có tổn thất hoặc xếp không theo lô, theo vận đơn thì cơ quan giao thông mời
công ty giám định lập biên bản giám định dưới tàu. Nếu hàng chuyên chở đường biển
mà bị thiếu hụt, mất mát phải có “Biên bản kết toán nhận hàng với tàu”, còn nếu bị
đổ vỡ phải có “biên bản hàng đổ vỡ hư hỏng”. Doanh nghiệp nhập khẩu phải lập thư
dự tháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, sau đó phải yêu cầu công
ty bảo hiểm lập biên bản giám định tổn thất xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo
hiểm.

kinh doanh thực hiện được lợi nhuận và tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngày
nay trong thị trường luôn luôn biến động, thay đổi không ngừng, vì thế tiêu thụ hàng
hoá là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Tiêu thụ hàng hoá là cầu nối
giữa cung là doanh nghiệp và cầu là khách hàng có mối quan hệ khăng khít với nhau
hơn, đồng thời thông qua đó mà doanh nghiệp xác định được phương hướng sản xuất
kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả.
Kênh tiêu thụ là việc thiết lập và sắp xếp các phần tử tham gia vào quá trình
phân phối, tuyên truyền quảng cáo và bàn hàng cho doanh nghiệp. Có thể khái quát
các kênh tiêu thụ như sau:
Kênh 1: Mua bán hàng hoá trực tiếp giữa nhà nhập khẩu hàng hoá với người
tiêu dùng – tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân. Kênh này đảm bảo cho
hàng hoá lưu chuyển nhanh, giảm chi phí lưu thông, quan hệ giao dịch mua bán đơn
giản, thuận tiện.
Kênh 2: Việc lưu thông hàng hoá phải qua khâu trung gian - người bán lẻ. Đó
là loại kênh phân phối ngắn thuận tiện cho người tiêu dùng, hàng hoá cũng được giải
phóng khỏi chức năng bán lẻ.
Kênh 3: Việc mua bán hàng hoá phải qua nhiều khâu trung gian – bán buôn và
bán lẻ. Kênh phân phối này tuy thời gian lưu chuyển và chi phí lưu thông lớn hơn các
kênh trước, nhưng thích hợp cho điều kiện sản xuất và lưu thông nhiều loại sản
phẩm, phù hợp với quan hệ mua bán của nhiều loại doanh nghiệp, từng khâu của quá
trình sản xuất và lưu thông được chuyên môn hoá, tạo điều kiện để phát triển sản
xuất, mở rộng thị trường, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và tiền vốn.
Kênh 4: Sự vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng như
kênh 3, nhưng trong quan hệ giao dịch mua bán xuất hiện nhiều khâu môi giới trung
gian. Người môi giới mua bán cần thiết khi xuất hiện cung hoặc cầu về hàng hoá mà
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
người bán hoặc người mua thiếu kênh thông tin hoặc khó khăn về tiếp cận, giao dịch
mua bán.

19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả KDHNK được biểu hiện ở những
dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả
KDHNK, nó tác dụng thiết thực cho công tác quản lý ngoại thương. Nó còn là cơ sở
để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả và xác định những biện pháp nâng cao hiệu
quả kinh tế ngoại thương. Hiệu quả này được chia thành các loại sau:
+ Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân:
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động ngoại
thương của từng doanh nghiệp, của từng thương vụ, mặt hàng xuất nhập khẩu. Biểu
hiện chung của hiệu quả cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế xã hội mà ngoại thương đem lại cho nền kinh tế quốc dân là
sự đóng góp cho hoạt động ngoại thương vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu
kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho nhân sách, giải
quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,…
Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội có mối quan hệ nhân
quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả KTQD chỉ đạt được trên cơ sở hoạt động
có hiệu quả của các doanh nghiệp ngoại thương. Tuy nhiên có doanh nghiệp xuất
nhập khẩu không đảm bảo được hiệu quả nhưng nền kinh tế vẫn thu được hiệu quả.
+ Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp:
Hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi
trường và thị trường của nó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để giải quyết
những vấn đề then chốt: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và với
chi phí bao nhiêu.
Mỗi nhà cung cấp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong
những điều kiện tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức và quản lý lao
động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của mình với một chi phí
cá biệt nhất định và người nào cũng muốn tiêu thụ được hàng hoá của mình giá cao
nhất. Tuy vậy, khi đưa hàng hoá của mình ra bán trên thị trường, họ chỉ có thể bán
theo một giá là giá cả thị trường nếu sản phẩm của họ hoàn toàn giống nhau về mặt

quả tuyệt đối là cơ sở xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là trên cơ sở những chỉ tiêu
tuyệt đối của từng phương án, ngừơi ta so sánh mức hiệu quả của từng phương án với
nhau. Mức chênh lệch chính là hiệu quả so sánh. Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả
so sánh được tính không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn
việc so sánh giữa mức chi phí của các phương án với nhau để lựa chọn phương án có
chi phí thấp nhất, thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án.
SV: Nguyễn Thị Hồng Hạnh Lớp 47B – Khoa TM và KTQT
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.3.2 Chỉ tiêu đánh gía hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp kinh doanh hàng
nhập khẩu.
Để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu một cách
có cơ sở khoa học cần phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phù hợp bao gồm chỉ tiêu
tổng quát và chỉ tiêu cụ thể để tính toán. Trong đó chỉ tiêu tổng quát là cơ sở định
hướng để tính toán từng chỉ tiêu cụ thể, còn chỉ tiêu cụ thể phải phù hợp và thống
nhất với chỉ tiêu tổng quát.
Chỉ tiêu tổng quát:
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp HNK được xác định bởi tương quan
giữa hai đại lượng là kết quả thu được từ kinh doanh HNK và chi phí bỏ ra để
KDHNK, cả hai đại lương này đều phức tạp và khó đánh giá.
Hiệu quả kinh doanh HNK =(1)
Kết quả thu được trong kinh doanh đo bằng các chỉ tiêu như tổng doanh thu,
lợi nhuận, doanh thu nội tệ nhập khẩu còn chi phí bỏ ra như lao động, vốn cố định,
vốn lao động, chi phí ngoại tệ nhập khẩu … Công thức (1) phản ánh mức sinh lợi của
các chỉ tiêu chi phí bỏ ra, có nghĩa là một đơn vị chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu
đơn vị kết quả. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu có
thể tính bằng cách so sánh:
Hiệu quả kinh doanh HNK = (2)
Công thức (2) phản ánh mức hao phí của các chỉ tiêu chi phí bỏ ra, có nghĩa là
một đơn vị kết quả thu được thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị chi phí.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status