Đề tài đánh giá hiệu quả bổ sung kẽm và một số vitamin ở trẻ suy dinh dưỡng có tiêu chảy cấp do rotavirus - Pdf 12


1
MỞ ĐẦU

Từ nhiều năm nay, suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em luôn là một vấn đề
sức khoẻ được đặc biệt quan tâm, nhất là ở nước đang phát triển. SDD ảnh
hưởng lâu dài tới sự phát triển và tăng nguy cơ các bệnh mạn tính khi trưởng
thành, suy giảm miễn dịch, tăng tỷ lệ mắc và độ nặng của bệnh nhiễm trùng,
[20], [79], [80], [109], [116]. Năm 2009 theo ước tính của tổ chức y tế thế
giới (WHO) có 27% trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị SDD [23].
Tại Việt Nam, theo thống kê năm 2012 (Nguồn Viện Dinh Dưỡng 2012) về tỷ
lệ SDD ở trẻ em cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 16,2%, SDD thấp còi là
26,7% và SDD gầy còm là 6,7%.
Trẻ em bị SDD dễ mắc viêm phổi và tiêu chảy trong đó 60,4% trẻ SDD
tử vong là do mắc tiêu chảy [79], tỷ lệ tử vong do tiêu chảy trên trẻ suy dinh
dưỡng cao (61%) là do thiếu vi chất dinh dưỡng kèm theo [25].
Trong hoàn cảnh nước ta, tiêu chảy trẻ em vẫn là một trong những
nguyên nhân gây SDD. Theo thông báo dịch năm 2007 của Bộ Y Tế, mặc dù
tỷ lệ tử vong do tiêu chảy đã giảm xuống nhưng tiêu chảy vẫn đứng hàng thứ
hai trong năm bệnh nhiễm trùng có số người mắc cao nhất sau cúm. Có rất
nhiều nguyên nhân khác nhau gây tiêu chảy, trong đó nguyên nhân do
Rotavirus chiếm tỷ lệ rất cao khoảng 46,7% đặc biệt là ở trẻ dưới 5 tuổi [1],
[4], [14], [99]. Tỷ lệ trẻ tiêu chảy nhập viện cao và chi phí y tế lớn đặc biệt là
đối với trẻ bị SDD.
Trong thập niên vừa qua, những tiến bộ trong ngành miễn dịch, dinh
dưỡng đã phát hiện mối quan hệ phức tạp giữa miễn dịch, dinh dưỡng và
nhiễm trùng. Dinh dưỡng kém hoặc thiếu các dưỡng chất chuyên biệt (như
kẽm, vitamin A) không chỉ làm suy giảm chức năng miễn dịch mà còn gây
nên những rối loạn trong phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng. WHO

2

hiệu quả đối với trẻ SDD có tiêu chảy cấp do Rotavirus của 3 phác đồ bổ sung
kẽm khác nhau là bổ sung kẽm đơn thuần, kẽm và vitamin A, kẽm và vitamin
nhóm B với các mục tiêu cụ thể như sau:
1. Đánh giá hiệu quả của các phác đồ bổ sung kẽm và vitamin lên sự
phục hồi chỉ số nhân trắc ở trẻ suy dinh dưỡng có tiêu chảy cấp do
Rotavirus.
2 .Đánh giá hiệu quả của các phác đồ bổ sung kẽm và vitamin lên sự
phục hồi tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ suy dinh dưỡng có tiêu
chảy cấp do Rotavirus.
3. Đánh giá hiệu quả của các phác đồ bổ sung kẽm và vitamin đối với
điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ suy dinh dưỡng có tiêu chảy cấp do Rotavirus.
Kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần chỉ ra hiệu quả của kẽm và một số
vitamin trong điều trị tiêu chảy cấp do Rotavirus ở trẻ suy dinh dưỡng, từ đó
làm cơ sở xây dựng các giải pháp can thiệp thích hợp nhằm cải thiện tình
trạng dinh dưỡng và miễn dịch của trẻ. 4
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SUY DINH DƢỠNG Ở TRẺ EM
1.1.1. Định nghĩa
Suy dinh dưỡng là thuật ngữ chuyên ngành chỉ tình trạng bệnh lý gây
ra bởi sự cung cấp không đủ hay không cân đối của các chất dinh dưỡng trong
chế độ ăn cho cơ thể.
Theo WHO, SDD là nguyên nhân chính ảnh hưởng lớn đến sức khỏe toàn
cầu và một nửa số trẻ tử vong trên thế giới có liên quan đến SDD [135].
Ở trẻ em hiện nay người ta nhận định tình trạng dinh dưỡng chủ yếu
dựa vào cân nặng và chiều cao theo 3 chỉ số sau:
+ Cân nặng theo tuổi (CN/T)

sau 24 tháng thì chiều cao của trẻ sẽ không được cải thiện [24].
Mỗi cá thể biểu hiện tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng khác nhau tuỳ
thuộc vào số luợng và chất lượng của chất dinh dưỡng nào đó mà làm ngăn
cản hay ảnh hưởng đến các chất dinh dưỡng khác cần cho cơ thể, đồng thời
còn phụ thuộc vào thời gian bị thiếu hụt lâu hay chóng.
Dạng hay gặp nhất của suy dinh dưỡng là thiếu protein – năng lượng và
thiếu vi chất dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng do thiếu protein – năng luợng chủ
yếu là do cung cấp không đủ hay do cơ thể hấp thu kém. Thiếu vi chất dinh
dưỡng là do cung cấp thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết như là vitamin, yếu
tố vi lượng tuy đòi hỏi yêu cầu của cơ thể với những vi chất này là số luợng ít.
Sự thiếu vi chất dinh dưỡng dẫn đến biểu hiện nhiều bệnh lý trên lâm sàng và
giảm chức năng của các cơ quan trong cơ thể. Ví dụ như thiếu vitamin A làm
giảm khả năng của cơ thể chống đỡ với bệnh tật, ảnh hưởng đến thị lực. Thiếu
máu thiếu sắt, thiếu vitamin A, thiếu Iot là vấn đề đáng lo ngại hiện nay, bên

6
cạnh đó cũng còn những vấn đề đáng quan tâm hiện nay là thấp còi, còi cọc,
sự mệt mỏi, khả năng lao động, khả năng tập trung và trí thông minh giảm
sút, giảm khả năng hoà nhập, khả năng lãnh đạo kém cũng như thiếu sự quyết
đoán đều là do hậu quả tác động trực tiếp của tình trạng thiếu dinh dưỡng.
Năm 2009, WHO ước tính có 27% trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát
triển bị suy dinh dưỡng. Khoảng 178 triệu trẻ em (32%) ở các nước đang phát
triển bị suy dinh dưỡng mạn tính [138]. Tử vong do suy dinh dưỡng ước tính
chiếm 58% tổng số tử vong năm 2006 [94]. Mặc dù tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
giảm đi ở Châu Á, nhưng ở khu vực Nam Á tỷ lệ này vẫn còn cao. Những
nước như Ấn Độ, Bangladesh, Afghanistan, Parkistan tỷ lệ suy dinh dưỡng
vẫn còn rất cao (38-51%) cao hơn so với sub-Saharan Châu phi (26%) [23].
Việt Nam là một nước được WHO và UNICEF đánh giá là quốc gia
duy nhất có tốc độ giảm suy dinh dưỡng nhanh từ 51,5% thể nhẹ cân năm
1985 xuống còn 21,2% thể nhẹ cân năm 2007, năm 2012 SDD nhẹ cân là

tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với trẻ khỏe. Thậm chí khi trẻ có CN/T <-1SD
cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong và trẻ SDD chiếm 44% - 60% tỷ
lệ bệnh tật gây ra do các nguyên nhân như sởi, viêm phổi, tiêu chảy.
Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra suy dinh dưỡng là nguyên nhân chính
dẫn đến tử vong và bệnh tật do nhiễm vi khuẩn, virus, ký sinh trùng [45],
[60], [116], [124], [129]. Dinh dưỡng kém đã làm ít nhất một nửa trong số
10.9 triệu trẻ dưới 5 tuổi chết mỗi năm, không những thế trẻ em bị SDD trung
bình bị 160 ngày ốm/ năm [33], [72].
Hằng năm có khoảng 10.8 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết, trong đó 54%
là do suy dinh dưỡng đóng góp nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp và suy
dinh dưỡng kết hợp với nhiễm trùng chiếm 53% nguyên nhân gây chết ở các

8
nước đang phát triển [134]. Ngay cả Pháp thì suy dinh dưỡng trực tiếp góp 6-
10% số tử vong trong bệnh viện [112].
Trong số 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ <5 tuổi thì tử
vong do viêm phổi đứng thứ 5 và tiêu chảy đứng thứ 10 [8]; [72]. Ở Việt Nam
theo số liệu thống kê từ năm 2000-2003 thì tử vong do tiêu chảy chiếm 10%
tổng số các nguyên nhân gây tử vong cho trẻ <5 tuổi, viêm phổi chiếm 12%
và sởi là 3%. Năm 2010 có 13% trẻ dưới 5 tuổi bị viêm phổi điều trị nội trú
tại Viện nhi trung ương bị SDD tỷ lệ cao nhất ở trẻ 13-26 tháng tuổi và thời
gian điều trị nội trú của nhóm trẻ SDD dài hơn 2,1 ngày so với trẻ thường (8,3
ngày so với 6,2 ngày) [11]. Theo thống kê hàng năm về tình hình tử vong tại
Viện Nhi (báo cáo năm 2010) có 3% trẻ tử vong tại Viện Nhi trong đó tất cả
trẻ đều là trẻ bị SDD.
1.1.3.1. Suy dinh dưỡng và tiêu chảy cấp
Tiêu chảy là một trong các bệnh thường gặp ở trẻ em, có tỷ lệ mắc và
tử vong cao, đặc biệt là các nước nghèo, nước kém phát triển.
Hằng năm ước tính ≈ 5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì bệnh tiêu chảy
(những năm 1980). Năm 2003 ước tính còn 1,9 triệu trong đó 80% là độ tuổi

v
v
à
à
tiêu
tiêu
ch
ch


y
y
Giảm thức ăn đưa vào
Giảm hấp thu
Tăng di hóa chất
dinh dưỡng
Nhu cầu dinh
dưỡng cao
Tổn thương hàng
rào bảo vệ
Thay đổi và tổn
thương hệ miễn dịch
Suy dinh dưỡng
Tiêu chảy

Sơ đồ 1.1. Vòng xoắn bệnh lý suy dinh dƣỡng và tiêu chảy
TCC là hội chứng nhiễm trùng ruột được gây ra bởi virus, vi khuẩn hay
ký sinh trùng. Nhiễm trùng thường được truyền qua con đường thức ăn hay
nước uống bị nhiễm khuẩn, hoặc từ người qua người do mất vệ sinh. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ mắc mới tiêu chảy cao, đặc biệt sau khi bắt đầu ăn

huy được hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân gây cản trở khả năng tự khỏi bệnh
của trẻ đó là suy giảm hệ miễn dịch mà nguyên nhân chính là do rối loạn
dinh dưỡng. Trong SDD thường có thiếu hụt vi chất dinh dưỡng và chính sự
thiếu hụt này ngăn cản hệ thống miễn dịch dẫn đến mất cân bằng của hệ miễn
dịch từ đó làm mất khả năng bảo vệ của cơ thể, cuối cùng dẫn đến tăng nguy
cơ mắc bệnh, tử vong. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ là rất quan
trọng đối với việc phòng ngừa bệnh nhiễm trùng cũng như trong điều trị.

11
1.1.3.2. Suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn hô hấp cấp: ARI (Acute
Respiratory Infection)
Tỷ lệ trẻ em chết do nhiểm khuẩn hô hấp cấp chiếm 25% ở trẻ dưới 5
tuổi tính trên toàn thế giới, 2/3 số này chết là do viêm phổi. Nguyên nhân hay
gặp nhất là Streptococcus pneumoniae và Haemophilus influenzae. Những
nguy cơ chính làm cho ARI trở nên nặng là: tình trạng dinh dưỡng kém, bụi
khói, ô nhiễm môi trường, điều kiện sống thấp. Đặc biệt trẻ sơ sinh, SDD, trẻ
bị nhiễm HIV rất dễ bị nhiễm trùng cơ hội tuy nhiên Streptococcus
pneumoniae và Haemophilus influenzae vẫn là nguyên nhân chính [34], [79],
[87], [93], [98].
1.1.4. Các giải pháp can thiệp phòng chống suy dinh dƣỡng hiện nay:
Kinh nghiệm và thực tiễn chỉ ra rằng, SDD hoàn toàn có thể phòng
tránh hay kiểm soát được. Hiện nay các biện pháp phòng chống SDD toàn cầu
tập trung vào 3 nhóm biện pháp: tăng lượng dinh dưỡng ăn vào, bổ sung vi
chất và giảm gánh nặng bệnh tật [73]. Với giải pháp bổ sung chất dinh dưỡng
bao gồm các vitamin và khoáng chất thì những chất được bổ sung thường là
sắt, iot, acid folic, vitamin A, kẽm và bổ sung đa vi chất cho trẻ nhỏ. Các hình
thức bổ sung có thể là bằng đường uống, tăng cường vi chất vào thực phẩm
hoặc dưới dạng trộn vào thức ăn bổ sung (sprinkles). Nhóm biện pháp này
được nhiều nước nhìn nhận như là giải pháp lâu dài để phòng chống thiếu vi
chất dinh dưỡng, SDD đặc biệt là thấp còi.

TCC là bệnh thường gặp, là vấn đề y tế toàn cầu do có tỷ lệ mắc và tử
vong đứng hàng đầu nhất là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Theo WHO hàng năm trên
thế giới có khoảng 4073,9 triệu đợt tiêu chảy trong đó trên 90% đợt TCC ở
các nước đang phát triển. Ngay cả trẻ em ở Châu Âu dưới 3 tuổi trung bình bị
từ 0,5-1,9 đợt/năm và Rotavirus là tác nhân chủ yếu [28].

13
Tình hình tử vong: 20 năm trước đây ước tính tử vong do TCC ở trẻ em là
5 triệu trẻ/năm, cứ khoảng 15 giây trên thế giới có 1 trẻ tử vong do tiêu chảy.
Hiện nay nhờ tiến bộ trong điều trị tiêu chảy, tỉ lệ tử vong đã giảm xuống còn
3,5-4,5 triệu trẻ/năm, trong đó khoảng 1,5-2,5 triệu trẻ dưới 5 tuổi. Tử vong
trong TCC có thể do mất nước và đặc biệt cao ở nhóm TCC trên trẻ SDD [49].
Việt Nam có tỷ lệ trẻ mắc bệnh tiêu chảy khá cao, trung bình mỗi năm
1 trẻ có thể mắc 2,2 đợt tiêu chảy [125]. Tỷ lệ tử vong do tiêu chảy 0,7%
(năm 2002) [117]. Theo thông báo dịch của Bộ Y Tế năm 2007, tiêu chảy
đứng hàng thứ hai trong năm bệnh có số người mắc cao nhất sau cúm.
1.2.2. Tác nhân gây bệnh:
Virus :
Rotavirus là tác nhân chính gây tiêu chảy nặng và đe doạ tính mạng cho
trẻ em đặc biệt là trẻ dưới 2 tuổi.
Rotavirus có 4 type huyết thanh và không có miễn dịch chéo, trong quá
trình tiếp xúc nhiều lần, nhiều năm có hiện tượng miễn dịch tự nhiên do vậy
mà trẻ lớn và người lớn ít bị nhiễm Rotavirus. Virus nhân lên trong liên bào
ruột non, phá huỷ cấu trúc liên bào làm cùn nhung mao, gây tổn thương và
làm giảm hấp thụ đường lactose do tổn thương men lactaza.
Các virus khác có thể gây tiêu chảy : Adenovirus, Entrovirus
Vi khuẩn :
Coli đường ruột Escherichia Coli (E.Coli) có 5 type gây bệnh: Trong đó
E.coli sinh độc tố là tác nhân quan trọng nhất gây tiêu chảy cấp phân nước
ở trẻ em và người lớn. Vi khuẩn không xâm nhập vào niêm mạc ruột mà

TCC do Rotavirus phải nhập viện ở trẻ bú sữa mẹ giảm.

15
Rotavirus có khả năng nhân lên chủ yếu ở tế bào ruột gây ra nhiễm
trùng. Rotavirus thường chỉ khư trú ở tế bào ruột non nên miễn dịch tại chỗ
đóng vai trò quan trọng hơn trong việc bảo vệ so với miễn dịch dịch thể.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng kháng thể đặc hiệu của Rotavirus ở dịch tiết tá
tràng có vai trò quan trọng trong chống tái nhiễm do vậy kích lệ việc sử dụng
vắc xin đường uống.
IgM trong huyết thanh và trong phân cao nhất trong giai đoạn cấp của
bệnh và giảm dần ở giai đoạn hồi phục, ngược lại IgA và IgG trong huyết
thanh và trong phân đạt mức độ thấp trong giai đoạn cấp tính và tăng nhanh
trong giai đoạn hồi phục [122].
1.2.4. Giảm hấp thu trong tiêu chảy.
Yếu tố niêm mạc:
Tỷ lệ nhung mao/tế bào hẽm giảm là kết quả tất yếu của TCC do
nghiêng cân bằng từ hấp thu sang bài tiết.
- Trước khi có tổn thương mô học, chức năng của ruột bình thường duy trì
vận chuyển nước và điện giải bình thường. Quá trình này phụ thuộc vào chu
kỳ của tế bào, sự di cư và biệt hóa của tế bào ruột khi chúng di cư dọc theo từ
tế bào hẽm tới đỉnh nhung mao.
- Khi mắc nhiễm trùng thời gian sống của tế bào ngắn lại, tăng thay đổi tế bào
làm cho nhung mao ngắn lại. Sự đáp ứng sớm của tế bào hẽm do tổn thương
làm tăng tế bào mất đi thì tăng tế bào thay thế và kết quả là từ một biểu mô có
tế bào biệt hóa đầy đủ với những tế bào hấp thu trưởng thành bằng một biểu
mô chưa trưởng thành. Như vậy biểu mô này có đặc điểm là đời sống tế bào
ngắn, tăng sự thay đổi tế bào, có ít vi nhung mao hơn và nghèo tế bào hẽm
biệt hóa.
- Hoạt tính disaccharidase và Na-K-ATPase bị giảm liên quan tới sự thay đổi
của niêm mạc.

lactose nằm ở vùng đỉnh cao nhất và bị suy thoái đầu tiên là các enzyme thủy
phân protein và phụ thuộc nhiều vào tính chất tổn thương tiến triển.
- Kém hấp thu đường lactose gây ra sự thay đổi áp lực thẩm thấu ở ruột non
dẫn tới tăng lượng dịch xuống đại tràng. Mặt khác những carbonhydrat dư
thừa xuống đại tràng được các vi khuẩn chí tại đại tràng lên men tạo ra acid
lactic làm tăng áp lực thẩm thấu lên 4-6 lần kéo nước vào đại tràng theo cơ
chế thẩm thấu làm tiêu chảy nặng hơn. Enzyme lactose suy giảm nhưng
không suy giảm toàn bộ mà trái lại các sucrose-isomaltase, maltase –
glucoamylase và trehalase vẫn hoạt động. Thiếu hụt Enzyme lactose thứ phát
phụ thuộc vào sự hồi phục của biểu mô niêm mạc ruột được nuôi dưỡng đủ
calo ăn vào và tránh lactose. Trong TCC do Rotavirus tỷ lệ thiếu hụt enzyme
lactose từ 30-50%. Sự hồi phục enzyme lactose trong 2-4 tuần sau nhiễm
trùng, nhưng cũng có thể kéo dài 4-8 tuần ở trẻ dưới 6 tháng. Chế độ ăn
không có lactose trong giai đoạn hồi phục của TCC có thể rút ngắn đợt tiêu
chảy.
Tiêu chảy có thể dấn đến suy dinh dưỡng hoặc làm cho suy dinh dưỡng
trở nên trầm trọng hơn bởi:
- Giảm lượng thức ăn ăn vào do chán ăn, bản thân bệnh lý tiêu chảy gây ra,
nôn, rối loạn điện giải, chướng bụng đầy hơi khó chịu, sốt và hậu quả của sốt
[75], [89], [104].
- Trong nghiên cứu ở Peru, trẻ bị TCC hoặc có hay không kèm theo sốt thấy
có giảm rõ rệt tổng năng lượng ăn vào từ 20-30% tổng năng lượng và tỷ lệ
này đặc biệt cao ở nhóm trẻ không dùng sữa mẹ [37]. Tương tự một nghiên
cứu khác ở Guatemalan gồm trẻ từ 15-60 tháng có tiêu chảy thấy có giảm
lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày khoảng 20% tương đương 175kcal và 4,8g
protein [89].

18
- Giảm hấp thu các chất dinh dưỡng do tổn thương ở ruột như các cơ chế đã
nêu trên mặt khác do sự tăng nhu động ruột trong tiêu chảy kết quả là thời

Bệnh khởi phát đột ngột cấp tính. Triệu chứng đầu tiên của bệnh là nôn, sốt,
tiêu chảy. Nôn thường xuất hiện phổ biến trong vòng 24-48h. Tiêu chảy
thường xuất hiện sau nôn 1-2 ngày với đặc điểm là phân lỏng toàn nước có
màu trắng đục và số lần đi ngoài 7-10 lần/ngày và hầu hết bệnh có thể tự khỏi
sau 5-8 ngày bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý và bồi phụ nước - điện giải bằng
ORS. Sốt gặp 60% trường hợp, sốt kéo dài 1-3 ngày. Hầu hết các biểu hiện
lâm sàng của TCC do Rotavirus thường nhẹ và tự giới hạn. Thời gian đợt
bệnh kéo dài 8 ngày, dao động từ 5-21 ngày. Đợt bệnh TCC do Rotavirus ở
trẻ SDD, suy giảm miễn dịch thường nặng và kéo dài. Theo các tác giả 2%-
16,7% trẻ mắc TCC phát triển thành TCKD [118].
Triệu chứng cận lâm sàng:
Công thức máu: đa số không có sự thay đổi về thành phần máu ngoại
vi. 20%-25% bệnh nhân có bạch cầu tăng ở giai đoạn muộn, 10%-15% bệnh
nhân có tăng nhẹ bạch cầu ở giai đoạn đầu, thời kỳ hồi phục có thể tăng nhẹ
bạch cầu ái toan [118].
Xét nghiệm phân: có sự xuất hiện tinh bột, sợi cơ do tăng tốc độ vận
chuyển của các chất trong lòng ruột, giảm hấp thu lactose và các chất. Trong
TCC do Rotavirus thì protein mất qua phân là rất ít [118].
1.2.6. Điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ suy dinh dƣỡng
Mục tiêu: Cắt đứt vòng xoắn bệnh lý suy dinh dưỡng và tiêu chảy
Hồi phục lại hình thái và chức năng ruột ở trẻ suy dinh dưỡng [8]
20
Hồi phục nước điện giải:
Hồi phục nước điện giải và thăng bằng toan kiềm phải được tiến hành ngay
lập tức. Tuỳ mức độ mất nước nặng hay nhẹ mà bồi phụ nước điện giải bằng
đường miệng với ORS hay đường tĩnh mạch.
Chế độ dinh dưỡng:

ORS chuẩn và điều này là phù hợp với trẻ suy dinh dưỡng vì phân của trẻ suy
dinh dưỡng bị mất nhiều K hơn so với Na.
Bảng 1.1. Sự khác biệt của Resomal với dung dịch ORS chuẩn
Thành phần
ORS chuẩn
(g/l)
Resomal
(g/l)
ORS nồng độ thẩm thấu
thấp
(g/l)
NaCl
3,5
1,75
2,6
Glucose
20
35
13,5
KCl
1,5
3
1,5
Trisodiumcitrate
2,9
1,45
2,9

Dung dịch Resomal có thể tự tạo ra từ dung dịch ORS chuẩn của WHO
như sau: Hoà tan 1 gói ORS thông thường (loại 1 gói/1 lít nước) trong 2 lít


23
www.themegallery.com
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH BÙ DỊCH
Cân nặng
Tăng
Giữ nguyên Tụt
Cải thiện lâm
sàng
F75
Ko cải
thiện
Dừng tất cả dịch
Cho F75
Chẩn đoán và đánh
giá lại
Tăng
Resomal
5ml/kg/h
Đánh giá
lại sau
từng giờ
Tăng
Resomal
lên
10ml/kg/h
Đánh giá
lại sau
từng giờ


- Bổ sung kẽm và vitamin A. Các yếu tố vi lượng. Có thể bổ sung các vitamin
với liều gấp đôi nhu cầu khuyến cáo hàng ngày vì sự kém hấp thu chất dinh
dưỡng, sự mất chất dinh dưỡng trong tiêu chảy đặc biệt là những yếu tố vi
lượng như vitamin A hay xảy ra.
- Dùng kháng sinh toàn thân hoặc tại chỗ.
1.3. VI CHẤT DINH DƢỠNG
Vi chất dinh dưỡng là một khía cạnh được quan tâm đặc biệt trong
nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước vì chúng có vai trò rất quan trọng trong
chức năng của hệ thống miễn dịch. Nhiễm trùng có ảnh hưởng lên tình trạng
vi chất dinh dưỡng của cơ thể và ngược lại chính hậu quả của sự ảnh hưởng
này sẽ biểu hiện trên lâm sàng cũng như ảnh hưởng tới sức khoẻ của cơ thể.
Khi nhiễm trùng sẽ làm mất các vi chất dinh dưỡng như vitamin A, kẽm đặc
biệt trong nhiễm trùng do Rotavirus.

25
Bảng 1.2. Vai trò của một số chất dinh dƣỡng làm tăng cƣờng hệ
miễn dịch [123]
Chất dinh dưỡng
Khả năng chống
oxy hoá
Với hệ miễn dịch
Đề kháng với
nhiễm trùng
A

↑↑↑
↑↑↑/↓
Vitamin nhóm B



Vai trò của vi chất dinh dưỡng trong phòng ngừa nhiễm trùng: đảm bảo
cho cơ thể nhận đủ chất dinh dưỡng cần thiết là rất quan trọng để phòng
chống một số bệnh nhiễm trùng. Mặc dù vitamin A được coi như là chất dinh
dưỡng chống lại nhiễm trùng “anti-infective nutrient,” nhưng cũng có ít bằng
chứng thấy được vai trò của vitamin A trong phòng chống các đợt nhiễm
trùng mới mà chỉ thấy được vai trò của nó trong việc giảm tỷ lệ tử vong của
các bệnh nặng đặc biệt trên trẻ đẻ non [50] .

Trích đoạn LÝ DO CẦN TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU Cỡ mẫu và phƣơng pháp chọn mẫu: Hiệu quả của can thiệp đối với triệu chứng tiêu chảy cấp Tác dụng phụ của bổ sung kẽm Hiệu quả của can thiệp đến công thức bạch cầu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status