Chỉ số năng lực quản lý môi trường và những vấn đề liên quan đến môi trường không khí Việt Nam - Pdf 13

Chỉ số năng lực quản lý môi trường và những vấn đề liên quan đến môi trường không khí
Việt Nam
PGS.TS Bùi Cách Tuyến
Thứ trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường
Từ những năm 2000, trên thế giới đã có một số nghiên cứu, xây dựng và áp dụng các chỉ số
về môi trường. Trong số đó, chỉ số bền vững môi trường (Environmental Sustainability Index -
ESI) và sau này là chỉ số năng lực quản lý môi trường (Envi-ronmental Períormance Index - EPI)
là 2 chỉ số mang tính "đột phá", có ý nghĩa trong việc đánh giá hiệu quả công tác BVMT của các
nước, có thể tham khảo trong các nghiên cứu, theo dõi diễn biến các vấn đề môi trường quốc gia
trên bình diện quốc tế.
ESI được coi là một công cụ sử dụng để đánh giá hiệu quả công tác BVMT, sự hài hòa giữa
phát triển kinh tế và BVMT của một quốc gia. ESI lần đầu tiên được đưa ra trong Diễn đàn Kinh tế
thế giới, tổ chức tại Davos, Thụy Sỹ, tháng 1/2005, giúp xác định tính chất bền vững môi trường
của 146 quốc gia.
ESI được coi là "tiền thân" của EPI được đề cập đến trong thời gian gần đây. EPI được dùng
để đánh giá hiệu quả hoạt động BVMT của một quốc gia. Chỉ số được nhóm nghiên cứu trường
Đại học Yale, Đại học Columbia phối hợp vói Diễn đàn Kinh tế thế giới, Trung tâm Nghiên cứu
của ủy ban châu Âu và các tổ chức, chuyên gia quốc tế xây dựng dựa trên công trình nghiên cứu
về ESI 2005. Chỉ số EPI được nghiên cứu xây dựng từ năm 2006 với các công trình nghiên cứu
khác nhau: thử nghiệm công bố EPI năm 2006, EPI năm 2008 và EPI năm 2010.
Năm 2012, nhóm nghiên cứu này tiếp tục công bố báo cáo EPI 2012 tại Diễn đàn Kinh tế thế
giới nhằm mục đích xếp hạng (EPI rank) và đánh giá xu hướng (Trend EPI rank) về hiệu quả hoạt
động BVMT cho 132 quốc gia trên thế giới.
1. Phương pháp tính toán EPI
Theo báo cáo năm 2012, EPI được tính toán dựa trên 10 nhóm chỉ thị với 22 chỉ thị cụ thể.
Các nhà nghiên cứu đã chia 10 nhóm chỉ thị nói trên thành 2 nhóm đối tượng: Sức khỏe môi
trường (gồm 3 nhóm chỉ thị) và Tính bền vững của hệ sinh thái (gồm 7 nhóm chỉ thị). Cách xây
dựng chỉ số, các nhóm chỉ thị được mô tả chi tiết trong sơ đồ:
Theo đó, xem xét cụ thể đến nhóm chỉ thị về ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến sức khỏe,
được tính toán theo 2 chỉ thị:
*Chỉ thị Bụi lơ lửng PM2,5: được đánh giá thông qua thông số bụi mịn PM-2,5 bằng

đúng vị trí của quốc gia so sánh với các nhóm quốc gia trên thế giới. Cụ thể như, nếu xét về nhóm
chỉ thị chất lượng không khí ảnh hưởng đến sức khỏe con người thì Việt Nam đứng ở vị trí thấp
(123/132). Nhưng xét trên tổng thể về năng lực và thực thi chính sách BVMT thì Việt Nam được
xếp hạng 79/132 và thuộc nhóm nước có năng lực quản lý môi trường trung bình.
3. Đánh giá hiện trạng chất lượng không khí của Việt Nam
Chất lượng môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay được theo dõi, đánh giá dựa trên số
liệu quan trắc môi trường định kỳ hàng năm của Hệ thống quan trắc môi trường quốc gia và các
địa phương. Các số liệu quan trắc này sẽ được so sánh với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN)
về môi trường không khí để đánh giá mức độ ô nhiễm. Theo các báo cáo đánh giá trong giai đoạn
2005 - 2010, diễn biến chất lượng môi trường không khí tại một số đô thị lớn của Việt Nam (điển
hình như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai...) có xu hướng suy giảm. Tuy nhiên, vấn đề ô
nhiễm chủ yếu là bụi và bụi mịn, đặc biệt là các khu vực đang trong quá trình xây dựng hoặc có
các nút giao thông có mật độ phương tiện tham gia giao thông lớn. Tại các khu vực này, nồng độ
bụi và bụi mịn vượt tiêu chuẩn cho phép khá cao (khoảng 1,5-2,5 lần).
Tại các khu vực đang trong quá trình xây dựng, ô nhiễm bụi xảy ra vào những giai đoạn nhất
định và mang tính chất cục bộ. Nguyên nhân chính là do các quy định về che chắn bụi tại các công
trường xây dựng và phương tiện chuyên chở vật liệu và phế thải xây dựng, phun nước rửa đường...
chưa được giám sát và thực hiện triệt để. Đặc biệt, việc đào, lấp, sửa chữa hệ thống đường, ống
cấp thoát nước, hệ thống cáp thông tin, cáp điện thường xuyên mà không nghiêm túc thực hiện các
biện pháp BVMT dẫn đến mất vệ sinh, ô nhiễm bụi tại các khu vực này.
Nồng độ bụi tại các nút giao thông vào giờ cao điểm thường vượt tiêu chuẩn cho phép. Các
thời điểm này, lưu lượng phương tiện giao thông lớn, kèm theo đó chất lượng các phương tiện kém
và hệ thống đường giao thông chưa tốt dẫn đến thải lượng chất ô nhiễm vào không khí tăng cao.
Thêm vào đó, ở những khu vực tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp cũng là nơi có hàm
lượng bụi cao vượt mức cho phép. Nhiều cơ sở sản xuất vẫn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, lại
chưa có hoặc không vận hành các hệ thống xử lý khí thải đã dẫn đến lượng khí thải công nghiệp ra
môi trường khá lớn. Ví dụ như việc đốt nhiên liệu hóa thạch của các ngành xi măng, luyện kim,
nhiệt điện tạo ra khí thải gây ô nhiễm, hoặc ngành công nghiệp hóa chất thải ra môi trường không
khí các loại hơi hữu cơ độc hại... Các thông số khác đặc trưng cho ô nhiễm không khí như Nitơ
đioxit (NO2), Carbon monoxit (CO), Sunfua đioxit (SO2)... mặc dù có xu hướng gia tăng trong

các chương trình quan trắc môi trường không khí để theo dõi, đánh giá thường xuyên chất lượng
môi trường không khí. Song song với đó, các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về chất lượng môi
trường không khí cũng được điều chỉnh, ban hành mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra.
Trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương
Theo quy định của Luật BVMT 2005 và các Nghị định quy định chức năng nhiệm vụ của
các Bộ, ngành, việc phân công trách nhiệm trong quản lý môi trường không khí còn phân tán, cụ
thể:
- Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước thống
nhất về BVMT, trong đó có quản lý môi trường không khí.
- Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ TN&MT hướng dẫn kiểm
tra, xác nhận đạt tiêu chuẩn môi trường đối với các phương tiện giao thông cơ giới; xây dựng kết
cấu hạ tầng giao thông và hoạt động giao thông vận tải; quản lý chất lượng phương tiện tham gia
giao thông, vấn đề khí thải từ các phương tiện giao thông...
- Bộ Xây dựng được phân công chịu trách nhiệm theo dõi công tác BVMT trong hoạt động
xây dựng, bao gồm: chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển đô thị quốc gia,
các chính sách, giải pháp quản lý quá trình đô thị hóa, các mô hình quản lý đô thị lồng ghép với
BVMT; ban hành các quy định, đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thực hiện đảm bảo các yêu cầu
BVMT trong hoạt động thi công, xây dựng như che chắn các công trình đang xây dựng, các
phương tiện vận chuyển vật liệu xây dưng... đảm bảo không phát tán bụi vào môi trường.
- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm theo dõi công tác BVMT các cụm/điểm công nghiệp,
làng nghề, cơ sở sản xuất công nghiệp tại các địa phương; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện
các biện pháp giảm thiểu và xử lý bụi, khí thải công nghiệp...
* Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm xây dựng và triển khai các chiến lược, quy hoạch tổng thể
phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
BVMT trong sản xuất nông nghiệp.
* Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, phân
công cho các Sở, ban ngành thực hiện công tác quản lý nhà nước về môi trường nói chung và môi
trường không khí nói riêng trong phạm vi địa phương mình.
Qua đó, có thể thấy rằng chính sự phân tán trong việc phân công trách nhiệm giữa các Bộ,
ngành, địa phương và việc thực hiện chưa đầy đủ trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương đã


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status