SKKN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong các tiết dạy văn thơ Hồ Chí minh ở lớp 11,12 - Pdf 14


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG
VỢ NHẶT - KIM LÂN VÀ VỢ
CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đọc – Hiểu văn bản văn học là khâu rất quan trọng trong quá trình
Dạy - Học Văn ở trường Trung học phổ thông. Đặc biệt, về phía giáo
viên Ngữ văn tôi luôn trăn trở làm sao giúp học sinh của mình tiếp cận
văn bản một cách hiệu quả nhất. Qua thực tế chấm bài kiểm tra, bài thi
môn của học sinh, tôi nhận thấy: bài làm của các em về văn bản tự sự
(trong phần nghị luận văn học) thường chỉ kể lan man, dài dòng, không đi
vào trọng tâm nên không đạt điểm cao. Bởi vì các em thường không nắm
được cốt truyện, chủ đề tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện, hình
tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật… của các văn bản tự sự học trong
chương trình. Vì thế tôi chọn đề tài :
“Lời văn nghệ thuật trong Vợ nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài”.
Khi thực hiện đề tài này, tôi hiểu đã có bao công trình nghiên cứu,

nội dung, giá trị nghệ thuật….cần thái độ chăm chỉ, chịu khó, tốn nhiều
thời gian …
2. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Chương trình Ngữ văn 12 cơ bản, học kì 2, phần văn bản tự sự (kể cả đọc
thêm) chiếm 15 tiết, 7 tuần. Chính vì thế trong đề tài này, tôi chỉ đề cập
đến nội dung các văn bản tự sự : Vợ nhặt - Kim Lân; Vợ chồng A phủ -
Tô Hoài.
Việc Đọc – Hiểu văn bản tự sự là một khâu quan trọng trong giờ học
Ngữ văn. Chính vì thế người giáo viên dạy Văn luôn tìm cách giúp học
sinh của mình tiếp cận văn bản tự sự sao cho hiệu quả nhất. Giáo viên
phải hướng dẫn học sinh: định hướng giọng đọc, tóm tắt văn bản, nhan đề
tác phẩm, tình huống truyện, hình tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật …
Tuy nhiên, việc tìm hiểu lời văn nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự
ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn

có thể vận dụng vào công việc giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập,
kết quả kiểm tra, bài thi ở học sinh.
II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Để học sinh hiểu sâu, có cơ sở lí luận chặt chẽ và vận dụng được vào
bài kiểm tra, bài thi, khi dạy văn bản tự sự, người giáo viên phải:
- Giúp học sinh nắm các khái niệm thể loại:
Truyện ngắn: là thể loại tự sự mang những đặc điểm như truyện nhưng
có quy mô nhỏ. Truyện ngắn được xem như một “lát cắt”, một “mảnh
nhỏ” của cuộc sống, cuộc đời nhân vật.
Thể loại truyện ngắn hiện đại là kiểu tư duy nghệ thuật mới, một cách
nhìn cuộc đời, cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại
với đặc điểm loại hình riêng biệt. Truyện ngắn hiện đại phát triển theo
nhiều hướng khác nhau, tùy cách sử dụng các yếu tố cốt truyện, nhân vật,
trần thuật và kết cấu truyện của nhà văn… Tác giả Phùng Hoài Ngọc với

năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao. Lời văn
nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương diện ngôn
ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các
phương thức tu từ … đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng
ngôn ngữ dân tộc: từ cổ, từ địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở
thành di sản nghệ thuật dân tộc.
Truyện ngắn, một thể loại tự sự trong văn học bao giờ cũng phản ánh
cuộc sống qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể
chuyện nào đó, qua đó ta hiểu được sự nhận thức đánh giá của nhà văn
đối với cuộc sống. Do đó tác phẩm bao giờ cũng có hình tượng người
trần thuật với vai trò kể lại, tả lại những diễn biến, sự việc và khắc hoạ
nhân vật trong câu chuyện. Lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn
nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể… Trong văn xuôi tự sự điểm
nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất. Xét
về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời người kể thành
lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình( lời bình luận trực tiếp).

Mỗi văn bản tự sự ( Vợ nhặt – Kim Lân; Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) sẽ
được xem xét, phân tích lời văn nghệ thuật, cụ thể là ở các mặt sau:
- Kết cấu văn bản
- Nghệ thuật trần thuật
- Điểm nhìn nghệ thuật
- Ngôn ngữ nghệ thuật
2.1. Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân:
2.1.1. Kết cấu văn bản:
* Trong văn học, khái niệm kết cấu bao hàm không chỉ sự liên kết bên ngoài
(mối liên hệ kết nối giữa các phần, các chương đoạn) mà cả sự liên kết bên
trong (cấu trúc nội dung cụ thể) của tác phẩm. Đó là "phương tiện cơ bản và tất
yếu của khái quát nghệ thuật", có "chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư
tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn

còn mới nguyên. Mạch truyện cũng dẫn đến tương lai được mở ra với câu nói
của bà cụ Tứ: “ Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau Này ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
Trên trục không gian và thời gian ấy, truyện Vợ nhặt có kết cấu bốn phần:
Phần 1: Tràng xuất hiện trong bóng chiều, đi làm về qua xóm nhỏ. Khi cái đói
chưa tràn về, Tràng thường được bọn trẻ đón mừng, nhưng dạo này chúng ngồi
ủ rủ còn Tràng thì mệt mỏi lê bước. Nhưng một buổi chiều Tràng về với một
người đàn bà nữa. Xóm ngụ cư bỗng xôn xao, người ta bàn tán, người đàn bà
ngượng nghịu còn Tràng thì không giấu niềm vui, niềm sung sướng.
Phần 2: Tràng nhớ lại hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa, bốn bát bánh đúc mà
mình có vợ.
Phần 3: Bà cụ Tứ xuất hiện. Tâm trạng và tình thương của bà đối với vợ
chồng mới.
Phần 4: Sáng hôm sau, bữa cơm ngày đói trong tiếng trống thúc thuế. Vợ
Tràng nói đến đòan người đi cướp kho thóc của Nhật và Tràng nghĩ về chuyện
đó.
Đầu truyện là ánh sáng lúc chạng vạng mặt người. Tràng một mình đi về.
Cuối truyện là ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt Tràng,

lửng lơ như từ giấc mơ đi ra, chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân, lòng
lâng lâng nghĩ về hạnh phúc gia đình.
Đầu truyện là nạn đói, kết thúc truyện là đoàn người đi cướp kho thóc của
Nhật, phía trước có lá cờ đỏ bay phấp phới. Truyện có một kết cấu chặt chẽ,
phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
2.1.2. Nghệ thuật trần thuật:
Ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng lại được không khí bao trùm bởi
cái đói, cái chết năm Ất Dậu qua khung cảnh xóm ngụ cư đầy tử khí. Và không
khí truyện lại sáng lên một buổi chiều Tràng về với một người đàn bà. Đây là
sự sáng tạo trong bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của Kim Lân. Nhưng
thành công ở truyện là nghệ thuật dẫn truyện: khéo léo, linh họat. Truyện được

nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Vì vậy khi dạy Đọc – Hiểu văn bản tự
sự người giáo viên phải giúp học sinh xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ
rõ vị trí người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong
tác phẩm.
Truyện Vợ nhặt được khơi gợi từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là từ những
con người trong nạn đói. Kim Lân từng nói :“Nội dung truyện dài này (truyện
Xóm ngụ cư – tiền thân truyện vợ nhặt) nói về thân phận của những con người
bị khinh rẻ, với cuộc sống nghèo đói, bệnh tật kéo dài cho đến ngày khởi nghĩa.
Ý nghĩa truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ
nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm
đạm, để mà vui, mà hi vọng. Có những người sắp chết đói, vẫn cứ kể chuyện về
làng mình, về đất đai, bản quản của mình. Thân xác họ đã lả đi, mà vẫn cứ lởn
vởn, cứ đau đáu nghĩ tới ngày trở về làng…”
Từ cảm hứng ấy và tấm lòng nhân hậu sâu sắc Kim Lân đã tái hiện được cốt
truyện, xây dựng được các nhân vật điển hình với những tâm trạng phong phú,
phức tạp. Đọc truyện của ông ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt
giữa Kim Lân và người nông dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân
trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy. Ngay cả khi xây dựng
những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên trong đó lại là những nỗi buồn và niềm
thương cảm sâu sắc. Những trang viết về những con người “dưới đáy” ấy đã

khiến ta xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt
hơn trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Ở đây, tác giả không
hề muốn nhấn mạnh những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và
nhân cách. Ngược lại, nhà văn đã đặt các nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,
lay lắt của cái đói, cái chết để tìm ra một cơ hội để biểu hiện niềm khao khát
được sống, được thương yêu và hy vọng mãnh liệt của họ. Kết thúc truyện có
câu chuyện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong óc
Tràng đã mang lại niềm tin, niềm hi vọng cho người đọc. Nhà văn muốn thông
qua nhận thức của nhân vật Tràng để chỉ rõ : con đường duy nhất thoát nghèo

thường, những bước chân bước vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám
vào trong miệng… Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính
chất nông thôn, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo,
giản dị mà hào hoa.
Truyện Vợ nhặt càng đặc sắc hơn là ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.
Chúng ta đọc đoạn văn sau:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu
chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ
đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắngmấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt cười tít.
Qua đoạn văn trên, nhà văn Kim Lân giúp ta hiểu sự gần gũi, mộc mạc, sự chân
tình, dí dỏm của những người lao động nghèo, trẻ trung. Cuộc đối thoại diễn ra
tự nhiên, thoải mái : nhiều câu nói trống không( không có chủ ngữ, không có từ

xưng hô) hoặc dùng từ xưng hô kiểu thân mật của khẩu ngữ( đằng ấy, nhà tôi),
nhiều câu đùa nghịch thân mật, dùng cả hình thức hò trong dân gian. Lúc đầu
quan hệ giữa họ là xa lạ, không quen biết, nhưng sau đó thân mật hơn và có
phần suồng sã. Họ cười đùa, nói chuyện làm ăn, về công việc và miếng cơm
manh áo. Nhân vật Tràng được tác giả giới thiệu là một chàng trai hiền lành,
chân chất; thị và các bạn gái thì lanh lợi, vui vẻ. Riêng thị thì tốt bụng, rất bạo
dạn. Như vậy, qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật tính cách, giọng

Truyện Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn trong tập truyện Tây Bắc. Truyện có
hai phần, viết về hai giai đoạn của cuộc đời Mị và A Phủ: Giai đoạn ở Hồng
Ngài, trong nhà thống lí Pa Tra; Giai đoạn ở Phiềng Sa, hai vợ chồng gặp gỡ
cách mạng rồi trở thành du kích.
Đoạn trích trong sách giáo khoa Vợ chồng A Phủ thuộc giai đoạn đầu: ở
Hồng Ngài. Truyện kể không theo trật tự thời gian. Mở đầu là hình ảnh “Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào, cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải
con gái nhà Pa Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra”. Nhà văn đã có
cách giới thiệu nhân vật Mị đặc sắc, đầy ấn tượng, gợi ra số phận đau khổ éo le
của Mị. Từ đó, mạch truyện đưa chúng ta quay về quá khứ, về kỉ niệm gia đình,
tình yêu êm đềm của Mị; rồi tác giả kể đến chuỗi ngày sống cảnh ngục tù và
tâm trạng vô cảm của Mị khi bị bắt làm dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pa Tra. Kế
tiếp là sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông trên núi cao. Kết
thúc truyện là Mị “người đàn bà chê chồng” này đã chạy theo A Phủ.
Không gian nghệ thuật trong truyện là không gian thiên nhiên rộng lớn của
vùng đất Tây Bắc đẹp và nên thơ. Và không gian ấy cũng chứa đựng tâm trạng
của nhân vật Mị. Bên cạnh đó còn có không gian hẹp là nhà thống lí Pá Tra,
cùng gian buồng của Mị. Ngôi nhà ấy đã hủy hoại biết bao đời con người lao
động lương thiện, dập tắt bao sự sống, khát vọng tự do, tình yêu, tuổi trẻ. Căn
buồng Mị ở, thực chất là một địa ngục giam hãm tuổi xuân, sức sống, tình yêu,
hạnh phúc của người con gái tài hoa, xinh đẹp và nết na vùng cao ấy. “Ở buồng

Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông
ta cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay lá nắng”.
Thời gian nghệ thuật trong truyện rất đa dạng: có thời gian hiện tại, quá khứ,
tương lai. Thời gian quá khứ được gợi chủ yếu qua hồi ức của Mị. Đó là khi Mị
ở nhà với bố, được sống tự do bên cạnh những người yêu thương nên được

vật Mị và A Phủ.
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa”.
“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa
nhà, lại bị người nhà xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập
chảy máu…”
Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của
nhân vật, vừa bộc lộ đời sống nội tâm nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm.
“ Trời ơi, nó bắt trói Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Truyện của Tô Hoài sự kết hợp nhiều lời trần thuật: khi trần thuật khách quan,
khi là trực tiếp, lại có khi là nửa trực tiếp. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc
thấm thía ý nghĩa của tiếng sáo gọi bạn tình vào đêm mùa xuân. Từ khi Mị trở
về chào bố để chết và hiểu rằng mình chưa thể chết, nên Mị đành chấp nhận
kiếp nô lệ, cứ “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Tuổi xuân của người phụ nữ
xinh đẹp, tài hoa ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp, tăm tối, trong căn
buồng chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài kia cứ thấy một
màu mờ mờ trắng trắng không biết là sương hay là nắng. Mị xem mình sống mà
như đã chết. Ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen cái khổ rồi. Thậm chí, đến khi
người bố, già chết đi, cô cũng chẳng nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà thống lí nữa.
Nhưng chính tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ở Mị:
ý niệm về thời gian, hoài niệm về tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phúc, tình yêu
trong con người tưởng đã chai sạn, vô cảm bởi lao động cùng cực, đau khổ, bất
hạnh. Ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng Mị để diễn tả quá trình
trỗi dậy của một sức sống tiềm tàng theo các bước ngày càng cao, càng nồng
nàn. Cũng từ đây, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật của nhà văn bắt

đầu chuyển đổi. Giọng điệu trần thuật không hoàn toàn khách quan nữa mà lúc
này có sự kết hợp với điểm nhìn trần thuật từ nhân vật, xuất hiện lời trần thuật
nửa trực tiếp:“Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị

nhân vật, được đặt trong một hoàn cảnh khá “điển hình” là mùa xuân về trên
vùng núi cao. Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng cháy mạnh mẻ
đấy là “đêm tình mùa xuân”. Chúng ta lắng theo tiếng sáo, tiếng khèn và tiếng
reo hò của đám trai gái và trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại:“tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Cái nồng nàn của một đêm xuân lại
được tăng thêm bởi bữa cơm rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ỹ và
đám người nhảy đồng, người hát… “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu,
cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Mị đã sống lại với những kỉ niệm đẹp của
ngày trước, những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa rượu bên bếp lửa
ấm cúng, với những tiếng sáo dặt dìu của bao nhiêu trai làng ngày đêm theo
Mị…
Tâm hồn Mị đã hồi sinh. Mị trở lại với những niềm vui sống, trong chốc lát:
“Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết
ngày trước, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lòng ham sống ở Mị
đã trỗi dậy. Sức sống ở Mị bấy lâu nay bị đè nén bỗng trào lên, không thể dập
tắt được nữa. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ “Nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa…”,“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”), đã xâm nhập
thế giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong “trong đầu
Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Và sự chuyển biến tâm hồn đã thành bước phát
triển quyết định, chuyển thành hành động. Mà đầu tiên là một hành động có
nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng”. Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi
của lòng mình: quấn lại tóc, rút cái váy hoa…, sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc
lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ
phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà. “Tóc
Mị xõa xuống, A Sử quấn tóc lên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng

xanh ra ngoài áo, rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa lại”. Nhà văn Tô Hoài đã
lên án sự tàn ác, dã man đến thản nhiên của một kẻ không còn tình người – A

Tô Hoài có cách phản ánh, miêu tả, lí giải cuộc đời, số phận và con đường thoát
khỏi thân phận nô lệ đi đến giành cuộc sống tự do, hạnh phúc cho mình.
2.2.4. Ngôn ngữ nghệ thuật:
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống
quần chúng. Tô Hoài quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách
chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm
giá trị của nó. Ở từng vùng đất, từng đối tượng, từng loại nhân vật, ông đều có
cách sử dụng ngôn ngữ thích ứng với đặc điểm của nó. Mặt khác, ông còn sử
dụng thành công những từ ngữ giàu sức tạo hình, từ chỉ màu sắc, từ địa phương;
những câu văn hàm súc, cô đọng Điều đó tạo cho tác phẩm của ông vừa có vẻ
đẹp giản dị, vừa không kém phần kì thú. Ông khẳng định: “Mỗi chữ phải là một
hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm
được, do phong cách văn chương của mình mà có”…“Câu nói là bộ mặt của ý.
Ý không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc sống không bao giờ trở lại giống nhau
như đúc thì lời văn cũng phải thế”(Sổ tay viết văn).
Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, hay nhất có lẽ là những trang Tô Hoài diễn tả
sự trỗi dậy từng bước của sức sống tiềm tàng trong lòng Mị, quá trình hồi sinh
của tâm hồn cô trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình. Mị sống trong
tâm trạng thiết tha bổi hổi rồi ngày càng rạo rực của nhân vật khi bỗng nghe
tiếng sáo. Đó là lúc mùa xuân về trên vùng núi cao. Người Hmông ở Hồng Ngài
ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu họach mùa màng. Cái
Tết năm ấy đến “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ
dội”, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân. “những chiếc
váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòa như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện
vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát”. Và
còn những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi Tết, chơi quay,
cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Sự sống của tạo vật và con người như được
khởi động, bừng tỉnh. Cũng từ ngoại cảnh ấy, tâm hồn Mị đã có sự thay đổi:

“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo

thay cho bố.
“Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
- Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc
ngô, nhưng cũng thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố
rằng::
-Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ
thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Khi muốn nhấn mạnh sự vô cảm của nhận vật Mị trước sự đoạ đầy về thể
xác lẫn tinh thần, Tô Hoài đã tạo dựng đoạn đối thoại giữa Mị và A Phủ nhưng
thực chất chỉ xuất hiện một chiều - một mình A Sử nói. Ta theo dõi cuộc đối
thoại sau:
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa.”
Một đoạn đối thoại khác lại diễn đạt sự đối lập giữa A Sử, con thống lí Pá
Tra với A Phủ. A Sử cậy con quan hiếp đáp, phá đám cuộc vui của trai làng. A
Phủ khỏe mạnh, ngang tàng, một mình đã đánh trả lại A Phủ.
“ Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao:
- Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.
- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!”
Ta xét thêm một đoạn đối thoại nữa:
“Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói trong hơi
gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.


giỏi
Tỉ lệ
học sinh
khá
Tỉ lệ
học sinh
trung
bình
Tỉ lệ
học sinh
yếu
Tỉ lệ
học sinh
kém

12A
7
(SS 42)
9,5 %

(4/42)

16,7 %

(7/42)
31 %
(13/42)

19 %
(8/42)

KHI THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP

Tỉ lệ học
sinh giỏi
Tỉ lệ
học sinh
khá
Tỉ lệ
học sinh
trung bình

Tỉ lệ học
sinh yếu
Tỉ
l
họ
c sinh
kém12A
7
(SS 42)

14,2%
(6/42)


- Phụ huynh nên tạo điều kiện thuận lợi cho con trong việc học và trau dồi
kiến thức Văn (thời gian, mua sách, tìm tài liệu hỗ trợ…).

- Phụ huynh nên phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn Văn
để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
b. Đối với nhà trường, giáo viên, học sinh:
- Ban giám hiệu nên bố trí phòng học, quản lí học sinh, hỗ trợ về vật chất và
tinh thần cho giáo viên Văn trong việc sọan giảng.
- Giáo viên dạy Ngữ văn sẽ tổ chức những buổi sinh họat chuyên đề, ngọai
khóa để truyền tải hết các vấn đề về lời văn nghệ thuật của văn bản tự sự.
- Học sinh chủ động, tích cực phối hợp nhịp nhàng với giáo viên giảng dạy
ở lớp.
2. Đối với Sở giáo dục
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Văn trong từng năm để
giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực
nâng cao chất lượng dạy học môn Văn
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên
giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn Văn
- Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông
tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy Văn
3. Đối với địa phương
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không
lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ
sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
Việc đưa ra đề tài trên chỉ là kinh nghiệm có tính chất cá nhân được rút ra
trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì thế, đề tài này khó tránh khỏi những
khiếm khuyết và hạn chế nhiều mặt. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
chân tình từ phía thầy cô và các bạn đồng nghiệp trong tỉnh.



LÊ THỊ MỸ NGỌC


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status