Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý tại khu bảo tồn thần sa phượng hoàng, huyện võ nhai, tỉnh thái nguyên - Pdf 14

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND Ủy ban nhân dân
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
KBT Khu bảo tồn
BQL Ban quản lý
BV&PTR Bảo vệ và phát triển rừng
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
BVR Bảo vệ rừng
KHKT Khoa học kỹ thuật
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
XTTS Xúc tiến tái sinh
TVVP Tang vật vi phạm
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
iii
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, trong đời sống vật chất và tinh thần của con người, trong việc duy
trì các chu trình tuần hoàn tự nhiên và sự cân bằng sinh thái, là cơ sở của sự
sống còn, sự thịnh vượng và bền vững của con người cũng như của trái đất
nói chung. Chính vì thế trong những thập kỷ vừa qua, nhiệm vụ bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường đã
trở thành mối quan tâm đặc biệt của cộng đồng thế giới, điều này được thể
hiện trong tuyên bố của Hội nghị môi trường đầu tiên ở Stockhoml năm 1972
và công ước bảo vệ đa dạng sinh học năm 1993.
Ở Việt Nam công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh khởi xướng và phát động chiến dịch trồng cây từ năm 1959,
trong suốt quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học bằng việc ban hành nhiều văn

gia, 57 khu dự trữ thiên nhiên, 13 khu bảo tồn loài và 45 khu bảo tồn cảnh
quan với tổng diện tích 2,292 triệu ha [14].
Khác với rừng sản xuất và rừng phòng hộ, việc thành lập, xây dựng kế
hoạch và tổ chức quản lý rừng đặc dụng thường được tiếp cận một chiều từ
trên xuống, chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức đến vai trò và vị trí
của các bên liên quan, sự phối hợp giữa các bên liên quan trong công tác quản
lý bảo vệ rừng chưa nhịp nhàng, thiếu chặt chẽ dẫn đến có lúc, có nơi khó
khăn, lúng túng trong chỉ đạo, triển khai quản lý bảo vệ rừng đặc dụng, trong
khi đó tiềm năng quản lý bảo vệ rừng trong xã hội chưa được khai thác, chưa
khuyến khích thu hút được các lực lượng tham gia một cách tích cực trong
công tác quản lý bảo vệ rừng. Mặt khác, bảo tồn thiên nhiên thường mâu
thuẫn với những lợi ích kinh tế trước mắt của cộng đồng dân cư, dẫn đến tại
một số khu rừng đặc dụng tình trạng chặt phá rừng, khai thác, săn bắt động
vật trái phép vẫn xẩy ra, đe dọa nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của các
khu rừng đặc dụng.
Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tình trạng khai
thác vận chuyển lâm sản trái phép, lấn chiếm đất rừng, săn bắn, bẫy động vật,
khai thác khoáng sản vẫn thường xuyên xảy ra, mặc dù Ban quản lý Khu bảo
tồn và các lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng đã có nhiều nỗ lực [3].
2
Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với công tác quản lý bảo vệ rừng
đặc dụng nói chung và quản lý rừng đặc dụng tại Khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa - Phượng Hoàng nói riêng, đó là cần phải khai thác được sức mạnh
tổng hợp của các bên liên quan trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Để thực
hiện được vấn đề này cần phải đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý rừng
hiện nay, tìm ra được tồn tại, khó khăn, thách thức; phân tích, đánh giá được
tiềm năng, khả năng đồng quản lý rừng của các bên liên quan để từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp, sát đúng với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, luật
pháp Nhà nước hiện hành.
Để góp phần giải quyết các vấn đề trên tại Khu bảo tồn thiên nhiên

nhận mà hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận được. Quá trình
đó được thể hiên trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm soát việc sử
dụng tài nguyên.
4
Borrini - Feyerabend, khái niệm về đồng quản lý như là một dạng hợp
tác trong đó có hai hoặc nhiều đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác định
và thồng nhất việc chia sẻ chức năng quan lý quyền và trách nhiệm về một
vùng, một lãnh thổ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên được xác định. Đồng
thời với mục tiêu về văn hóa, chính trị việc đồng quản lý là nhằm tìm kiếm sự
“công bằng” trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Qua các khái niệm của các tác giả nói trên, đồng quản lý rừng Khu bảo
tồn được hiểu như sau: Đồng quản lý rừng Khu bảo tồn là sự tham gia của hai
hay nhiều đối tác vào công tác quản lý bảo vệ rừng Khu bảo tồn, trong đó
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và quyền lợi của các đối tác được thống
nhất thông qua thảo luận trên cơ sở khả năng, năng lực của các bên và không
trái với pháp luật hiện hành, Công ước Quốc tế Nhà nước đang tham gia,
nhằm đạt mục tiêu chung quản lý tài nguyên rừng Khu bảo tồn tốt hơn, vừa
thỏa mãn mục tiêu riêng của từng đối tác.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Tính pháp lý về quản lý rừng đặc dụng
Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 [18], quy định tổ chức quản lý rừng đặc
dụng giao khoán ngắn hạn đất rừng đặc dụng trong phân khu bảo vệ nghiêm
ngặt cho hộ gia đình chưa có điều kiện di chuyển ra khỏi khu vực đó để bảo
vệ, giao khoán đất rừng đặc dụng thuộc phân khu phục hồi sinh thái cho hộ
gia đình cá nhân sinh sống ổn định trong khu vực đó để bảo vệ và phát triển
rừng, UBND tỉnh có thẩm quyền giao đất cho thuê đất vùng đệm đối với hộ
gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất nghiên cứu thí nghiệm về
lâm nghiệp.
Điều 50, 51 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [19], quy định tổ
chức quản lý rừng đặc dụng, khai thác lâm sản trong khu bảo vệ cảnh quan và

6
1.2.2. Đồng quản lý nhằm kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên với sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững
Để phát triển kinh tế xã hội con người phải khai thác tài nguyên thiên
nhiên, trong đó có tài nguyên rừng, trong khi đó bảo tồn là bảo vệ và tạo điều
kiện cho chính bản thân nó phát triển hơn, như vậy ở một góc độ nào đó bảo
tồn mâu thuẫn với sự phát triển kinh tế xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này
thì đồng quản lý là giải pháp hữu hiệu, nó đảm bảo cho con người khai thác
nguồn tài nguyên một cách hợp lý, hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế nâng
cao đời sống, kinh tế - xã hội phát triển nguồn lực để bảo tồn phát triển rừng
đặc dụng được tốt hơn.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Đồng quản lý rừng đặc dụng vận dụng khoa học tiên tiến kết hợp
kiến thức bản địa
Rừng đặc dụng được Nhà nước giao cho các Ban quản lý rừng đặc dụng
quản lý, đây là đội ngũ có kiến thức khoa học kỹ thuật trong quản lý bảo vệ
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học; các bên tham gia (các bên liên quan tham gia
đồng quản lý) đặc biệt cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị xã hội họ là
những người có kinh nghiệm, hiểu biết về khu rừng, khi vận dụng một cách
sáng tạo những kinh nghiệm, kiến thức khoa học tiên tiến thì công tác quản lý
bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
1.3.2. Đồng quản lý rừng đặc dụng giả quyết mâu thuẫn giữa lợi ích Quốc
gia và lợi ích các bên liên quan
Lợi ích rừng đặc dụng mang lại thường mang tính Quốc gia, Quốc tế.
Hiệu quả khó có thể đo đếm và phải mất nhiều thời gian mới phát huy hiệu
quả, trong khi đó cộng đồng dân cư quan tâm đến rừng đặc dụng thường với
mục tiêu ngắn hạn, phục vụ nhu cầu cuộc sống trong một thời gian, thời điểm
nhất định. Trên thực tế thường thì lợi ích quốc gia và lợi ích cá nhân; giữa lợi
7
ích lâu dài và lợi ích trước mắt thường không hoàn toàn đồng nhất, để giải

lý kết quả mang lại thật khả quan công tác bảo tồn được thực hiện tốt hơn, giá
trị của Vườn quốc gia tăng lên. Đồng quản lý ở đây đã kết hợp kiến thức bản
địa với mục tiêu bảo tồn, Ban quản lý Vườn chuyển giao kỹ thuật bảo tồn, xây
dựng các mô hình phát triển kinh tế còn người dân thực hiện các mô hình đó.
Sự hợp tác đã giải quyết hài hòa giữa chính sách của chính quyền và bản sắc
truyền thống của người dân.
Schuchemann [26], đã nghiên cứu tại Vườn Quốc gia Andringitren
thuộc Nước Cộng hòa Madagascar, để thực hiện quản lý Vườn quốc gia
Chính phủ Madagascar đã có Nghị định đảm bảo quyền của người dân trong
Vườn quốc gia như sau: Quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên rừng
phục hồi để sử dụng tại chỗ, giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng… đổi lại
người dân phải tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái. Đồng quản lý
ở đây đã có nhiều bên tham gia hơn bao gồm cả đơn vị quản lý du lịch trong
vườn và chính quyền địa phương.
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad [24], tại Khu bảo tồn Hoàng gia
Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với một
số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. 30% -
50% lợi ích thu được từ du lịch sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động kinh tế xã
hội của cộng đồng; nghiên cứu này chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên
rừng phục vụ du lịch ở vùng đệm.
Trong báo cáo của Moenieba, Isaacs và Najma Mohamed [23] về “Hợp
tác quản lý với người dân ở Nam Phi: Phạm vi vận động” đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại Vườn Quốc Gia Richtersveld. Cộng đồng người
dân ở đây là người di cư từ vùng khác đến, chủ yếu làm nghề khai thác Kim
cương, cuộc sống khó khăn, nhận thức về bảo tồn thiên nhiên chưa cao trong
9
khi đó công việc của họ làm ảnh hưởng tới đa dạng sinh học của Vườn Quốc
gia, Ban quản lý Vườn Quốc gia đã đề xuất phương thức hợp tác quản lý với
cộng đồng người dân, dựa trên hương ước quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng
dân cư. Theo đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh học trên địa phận của

nghiên cứu phối hợp quản lý và bảo tồn ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông.
Các tác giả đánh giá nghịch lý về sử dụng đất đai và nhà ở, tình hình quản lý
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản thuộc vùng đệm Khu bảo
tồn thiên nhiên Pù Luông. Nghiên cứu này đã đưa ra một số phân tích về sự
phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên rừng và đánh giá một số thể chế,
chính sách hiện có đối với công tác quản lý rừng đặc dụng.
Năm 2003 [15], Hội thảo để thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Phu Xai
Lai Leng do cộng đồng quản lý được tổ chức tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ
An, tại hội thảo nhiều ý kiến tham luận và trao đổi của các nhà quản lý, các
chuyên gia về một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn.
Năm 2003 [16], Nguyễn Quốc Dựng đã có nghiên cứu về đồng quản lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh, nghiên cứu đã có đánh giá giá trị đa
dạng sinh học của Khu bảo tồn, tiềm năng đồng quản lý của các bên liên
quan, bao gồm: Chính quyền xã Tà Bhinh, cộng đồng dân tộc Cơ Tu, Kiểm
Lâm, UBND huyện; đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý.
Đồng quản lý ở đây là sự hợp tác giữa Ban quản lý vườn, chính quyền và
cộng đồng người dân.
Năm 2004, Nguyễn Quốc Dựng cho rằng: đồng quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên là quá trình tham gia và hiệp thương của nhiều đối tác có mối
quan tâm tới nguồn tài nguyên trong khu bảo tồn, nhằm đạt được một thỏa
thuận thống nhất về quản lý vừa đáp ứng mục tiêu chung là bảo tồn thiên
11
nhiên, vừa đáp ứng mục tiêu riêng có thể chấp nhận được phù hợp với từng
đối tác.
Năm 2006, Vũ Đức Thuận đã nghiên cứu đề xuất đồng quản lý Khu
bảo tồn thiên nhiên Copia, tỉnh Sơn La, nghiên cứu đã phân tích các bên liên
quan và đề xuất một số nguyên tắc, giải pháp để tiến tới tổ chức đồng quản lý
rừng Khu bảo tồn.
Năm 2007, Phạm Văn Hạ đã nghiên cứu đồng quản lý Vườn Quốc gia
Chư Yang Sin - Đăk Lăk.

tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, góp phần giải quyết những khó
khăn trong công tác quản lý rừng Khu bảo tồn.
Qua tổng quan nghiên cứu các vấn đề về đồng quản lý trong và ngoài
nước nhận thấy các nghiên cứu trước đây, phần lớn các tác giả chủ yếu tập
trung nghiên cứu đồng quản lý giữa Ban quản lý khu bảo tồn với cộng đồng
dân cư sống trong và gần rừng, chưa có nhiều chú ý đến các cơ quan, tổ chức
khác có mối quan tâm hoặc có chức năng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn.
Qua đó đề tài nghiên cứu sẽ mở rộng thêm hướng nghiên cứu tới các cơ quan
tổ chức khác có mối quan tâm, có chức năng quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn
và vùng lân cận.
13
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN THẦN SA - PHƯỢNG HOÀNG
2.1. Điều kiện tự nhiên khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm cách thành phố
Thái Nguyên 40 km về phía Đông Bắc, có tọa độ địa lý:
Từ 21
o
45
'
12
''
đến 21
o
56
'
30
''

Độ ẩm không khí thấp nhất trong năm vào tháng 4 và tháng 5. Ở các thung
lũng sương muối thường xuất hiện vào tháng 12, tháng 1 với tần suất xuất
hiện 1 - 3 lần/năm. Đây là yếu tố bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của
động thực vật.
2.1.4. Thực trạng kinh tế
Theo kết quả điều tra dân sinh kinh tế xã hội, cuộc sống của nhân dân
trong khu vực còn ở mức thấp. Sản lượng lương thực bình quân gần 500
kg/người/năm. Thu nhập bình quân đạt 6 triệu đồng/người/năm. Số hộ nghèo
trong khu vực là 1.921 hộ, chiếm 38,97% tổng số hộ. Do cuộc sống khó khăn,
người dân thường xuyên vào rừng kiếm củi, khai thác gỗ, khai thác vàng để
kiếm sống đã tác động xấu đến rừng. Đây là một trong những nguyên nhân
chính làm suy giảm giá trị của rừng cả về diện tích và chất lượng.
2.1.5. Kinh tế - xã hội
2.1.5.1. Dân số và Lao động
Theo thống kê dân số tính đến hết năm 2011, dân số trong vùng là
20.895 nhân khẩu, sinh sống tại 4.929 hộ gia đình, trên địa bàn 66 xóm bản,
thuộc 6 xã và 1 thị trấn, mật độ dân số trong vùng bình quân là: 45
người/km2. Phân bố dân cư không đều, đa số các xóm bản tập trung ở thung
lũng, gần sông suối, có khả năng làm ruộng nước và dọc theo các trục đường
giao thông.
Tổng số lao động trong vùng là 9.351 lao động chiếm 44,75% dân số,
trong đó lao động nông nghiệp là chủ yếu chiếm trên 85%; lao động thuộc các
ngành nghề khác bao gồm cán bộ chủ chốt xã, huyện, cán bộ y tế, giáo dục.
15
2.1.5.2. Dân tộc và phong tục tập quán canh tác
Trong khu vực có 5 dân tộc chủ yếu là Tày, Dao, Nùng, Kinh, H'mông.
Ngoài ra còn một số dân tộc khác có ít người như Cao Lan, Sán Dìu. Dân tộc
Tày có số dân đông nhất chiếm 42,4%. Tiếp đến là dân tộc Dao 23,4%. Dân
tộc Nùng chiếm 16,0%. Dân tộc Kinh chiếm 10,7%. Dân tộc H’mông chiếm
7,4%. Các dân tộc còn lại chỉ chiếm 0,1%.

hàng ngày
- Y tế: Các xã trong khu vực đều đã xây dựng trạm y tế đặt ở trung tâm
xã. Tại các trạm y tế các xã có 10 bác sỹ, y tá điều dưỡng 20 hoạt động khám
chữa bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngoài ra còn có 66 cộng tác viên tham
gia y tế cộng đồng, 14 y sỹ hoạt động y tế học đường. Tuy lực lượng cán bộ y
tế đã được tăng cường nhưng do đội ngũ cán bộ y tế chưa đồng đều, trình độ
chuyên môn chưa cao, cơ sở vật chất và thuốc men còn thiếu nên công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng như công tác tuyên truyền phòng
chống dịch bệnh trong nhân dân còn hạn chế.
- Giáo dục: Toàn bộ khu vực có 25 trường, 228 lớp với 4 cấp học: mầm
non, tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Các trường ở thị trấn
và ở trung tâm các xã được xây dựng khá khang trang nên điều kiện học tập
đã cơ bản đảm bảo việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Còn lại một số
trường ở các xóm bản, nhất là các lớp tiểu học chưa được xây dựng kiên cố.
Cơ sở vật chất rất thiếu thốn. Việc dạy và học của giáo viên và học sinh ở đây
còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Tình hình kinh tế, xã hội xã Thượng Nung
2.2.1. Lịch sử hình thành xã Thượng Nung
Xã Thượng Nung huyện Võ Nhai được thành lập tháng 3 năm 1945, là
một xã miền núi cách trung tâm huyện Võ Nhai có địa giới hành chính giáp
ranh với các xã khác của Huyện.
17
Phía Bắc giáp với xã Sảng Mộc.
Phía Nam giáp với xã Cúc Đường.
Phía Đông giáp với xã Vũ Chấn.
Phía Tây giáp với xã Thần Sa.
Tổng diện tích tự nhiên 4.229,34 ha trong đó chủ yếu là diện tích đất
lâm nghiệp; diện tích đất canh tác nông nghiệp 739,44 ha chiếm 17,48% đất
tự nhiên của xã.
Với điều kiện địa lý chủ yếu là rừng núi đá vôi, đường giao thông đi lại

- Về trồng trọt: diện tích đất canh tác nông nghiệp 739,44 ha, trong đó
diện tích đất trồng lúa hàng năm 106,88ha, năng suất bình quân đạt 140-
150kg/sào/vụ, diện tích còn lại trồng các loại cây như: Lạc, sắn, ngô, khoai là
568,74 ha (năng suất bình quân ngô đạt 120-130kg/sào/vụ) [21].
- Chăn nuôi: Thượng Nung là xã thuần nông, đất đồi núi rộng, có điều
kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, tuy nhiên do người dân thiếu
vốn, trình độ chăn nuôi còn lạc hậu, chủ yếu là nuôi tận dụng tring hộ gia
đình, năng suất chất lượng đàn gia súc, gia cầm thấp, dẫn đến hiệu quả chăn
nuôi chưa cao. Tính đến 31 tháng 12 năm 2011 tổng đàn trâu hiện có 260 con;
Đàn bò 617 con; Đàn lợn 2.896 con; Gia cầm hiện có 21.000 con.
- Lâm nghiệp: Đất sản xuất lâm nghiệp toàn xã là 3258,94 ha chiếm
77,1% địa hình rừng núi đá vôi xen lẫn rừng trồng, nương rẫy của nhân dân.
Diện tích đất rừng sản xuất trên toàn xã chỉ có 209,25 ha chiếm 4,9% tổng
diện tích tự nhiên trên toàn xã do đó việc phát triển trồng rừng sản xuất còn
manh mún, nhỏ lẻ, chưa có đầu ra phù hợp.
- Thương mại, dịch vụ: Cả xã có 03 xe ôtô phục vụ vận chuyển hàng
hóa dân dụng, 05 máy xay xát, 8 máy cầy thô sơ. Nhìn chung thương mại dịch
19
vụ hàng hóa cả xã kém phát triển. Chủ yếu phải phụ thuộc về các mặt hàng do
bên ngoài cung cấp vào.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu đất theo mục đích sử dụng xã Thượng Nung
Ghi chú: LPN: đất lâm nghiệp; SXN: đất sản xuất nông nghiệp; CSD:
đất chưa sử dụng; PNN: đất phi nông nghiệp; NTS: đất nuôi trồng thủy sản.
Bảng 2.1: Diện tích đất theo mục đích sử dụng xã Thượng Nung
TT Mục đích sử dụng Mã Diện tích (ha)
Tổng diện tích đất nông nghiệp 4000,52
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN 739,44
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 675,62
1.1.1.1 Đất trồng lúa LUA 106,88
1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 568,74

3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Đối tượng
- Tài nguyên rừng ở Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng, cộng đồng
dân cư các xã trong khu bảo tồn và các bên liên quan.
- Cơ chế chính sách của các cấp có liên quan đến công tác quản lý hệ
thống rừng đặc dụng.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng dân cư trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
22


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status