Biện pháp quản lý kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Tây Bắc - Pdf 14

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới khi đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ CNH-
HĐH với mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
thì trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, hoạt động quản lý dù ở phƣơng
diện vĩ mô hay vi mô đều có ý nghĩa quan trọng và đƣợc coi là một tài nguyên
để phát triển xã hội. Đối với hoạt động của con ngƣời trong mọi lĩnh vực cụ
thể nhƣ học tập, lao động, sản xuất, GD&ĐT thì vấn đề chất lƣợng luôn đƣợc
quan tâm vì nó biểu thị rõ kết quả, mục đích và là thƣớc đo khả năng làm việc
của tập thể hay cá nhân. Nghị quyết trung ƣơng 2 khóa VIII và Đại hội IX đã
đề ra cho giáo dục nhiệm vụ nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, thực
hiện giáo dục toàn diện, tạo ra sự chuyển biến cơ bản về chất lƣợng giáo dục,
nhất là ở các trƣờng đại học, cao đẳng. Việc phát triển hợp lý quy mô giáo
dục phải đƣợc thực hiện gắn chặt với yêu cầu phát triển KT-XH, đáp ứng
nguồn nhân lực phục vụ CNH-HĐH, phát huy nội lực, chủ động hội nhập,
phát triển bền vững và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục [15].
Đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một khâu quan trọng và cần
thiết trong quá trình đào tạo sinh viên đang học tập tại trƣờng. Thông qua
đánh giá giúp cho cán bộ quản lý giáo dục và ngƣời dạy biết đƣợc ngƣời học
biết, hiểu và vận dụng nhƣ thế nào và nhà quản lý cần thay đổi cái gì trong kế
hoạch đào tạo. Kết quả đạt đƣợc khẳng định mức độ đạt hoặc chƣa đạt dựa
trên các tiêu chí, tiêu chuẩn đặt ra. Ngoài ra kết quả đào tạo là một trong
những minh chứng đánh giá chất lƣợng đào tạo, cũng nhƣ khả năng đáp ứng
nhu cầu sử dụng lao động.
Trong những năm gần đây, từ khi Cục Khảo thí và Kiểm định chất
lƣợng giáo dục đƣợc thành lập năm 2003, công tác đánh giá kết quả học tập
của sinh viên đƣợc chú trọng nhiều hơn, việc ứng dụng thi trắc nghiệm khách

học Tây Bắc.
3
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác kiểm tra đánh giá và quản lý kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu: Biện pháp quản lý kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của sinh viên trƣờng Đại học Tây Bắc.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu công tác quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
sinh viên trong nhà trƣờng đƣợc chú trọng và quan tâm hơn nữa thì sẽ nâng
cao chất lƣợng đào tạo của nhà trƣờng nói chung và chất lƣợng kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của sinh viên nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận về kiểm tra đánh giá và quản lý kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của sinh viên
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về công tác kiểm tra đánh giá
và quản lý công tác KT ĐG kết quả học tập của sinh viên đại học Tây Bắc
Nghiên cứu đề xuất biện pháp quản lý công tác kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của sinh viên Tây Bắc.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Nghiên cứu đề xuất biện pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của sinh viên đại học Trƣờng Đại học Tây Bắc.
6.2. Chủ thể quản lý: Hiệu trƣởng trƣờng Đại học Tây Bắc
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp lý thuyết, phƣơng pháp phân loại và hệ thống khái quát
hóa những vấn đề cơ bản của đề tài làm cơ sở nghiên cứu thực tiễn các biện

Mục tiêu của giáo dục đại học là cung cấp nguồn nhân lực đƣợc đào tạo
ở trình độ nhất định cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc.Với cách tiếp cận này, chất lƣợng đào tạo có thể đƣợc đánh giá qua năng
lực đáp ứng nhu cầu nhân lực của ngƣời đƣợc đào tạo sau khi hoàn thành
đƣợc chƣơng trình đào tạo. Việc xác định rõ đƣợc quan niệm về chất lƣợng,
phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng có thể là một cách hiệu quả để đổi mới giáo
dục đại học, là một bƣớc đi quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực có
đủ trình độ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Chính vì
vậy khâu kiểm tra, đánh giá để nâng cao chất lƣợng đào tạo để đáp ừng nhu
cầu của xã hội và thị trƣờng lao động.
Ở Châu Âu và Mỹ, lĩnh vực khoa học về đo lƣờng trong giáo dục phát
triển mạnh vào thời kỳ thế chiến thứ nhất với những dấu mốc quan trọng nhƣ
trắc nghiệm trí tuệ Stanford Binet xuất bản năm 1916, Bộ trắc nghiệm thành
chấm trắc nghiệm bằng máy IBM năm 1935, việc National Counil on
Measurement in Education (NCME) thành lập vào thập niên 1950 và
Educational Testing Service (ETS) ra đời năm 1947, một ngành công nghiệp
đã hình thành ở Mỹ.
Từ đó đến nay Khoa học về đo lƣờng trong tâm lý giáo dục đã phát
triển nhanh. Điều đáng quan tâm là lý thuyết đáp ứng câu hỏi Item Respond
Theory (IRT) đạt những thành tựu quan trọng nâng cao độ chính xác của
phƣơng pháp trắc nghiệm nói chung và trên cơ sở đó công nghệ trắc nghiệm
thích ứng nhờ máy tính (Computerized Adapting Testing). Ra đời, công nghệ
E-RATE chấm tự động trắc nghiệm tiếng Anh nhờ máy tính của EST đã đƣợc
6
triển khai qua mạng Internet trong những năm gần đây [30].
Ở Việt Nam, Khoa học về đo lƣờng và đánh giá trong giáo dục trƣớc
đây trong tình trạng khá lạc hậu và chậm phát triển, đến nay ngành khoa học

triển giáo dục nhƣ bài “đổi mới phƣơng pháp đánh giá, kết quả học tập ở các
trƣờng đại học nƣớc ta” của Lâm Quang Thiệp bàn về phƣơng hƣớng phát
triển khoa học về đo lƣờng trong giáo dục ở nƣớc ta [29].
Năm 2000, Bộ giáo dục và đào tạo và Dự án Việt Bỉ xuất bản quyền
“Các vấn đề đánh giá trong giáo dục”. Ở đây, các tác giả B.S Bloom
Hameline đề cập đến tầm quan trọng của mục tiêu giáo dục đối với kiểm tra,
đánh giá; các tác giả khác thì bàn rất nhiều đến các khía cạnh của đánh giá
trong giáo dục nhƣ Charles Hadji bàn về tâm lý của ngƣời đánh giá giáo dục
trong bài: “Đánh giá các hành động giáo dục”, từ đó đƣa ra vấn đề đánh giá
phải phục vụ đào tạo; Charles delome khẳng định đánh giá phải liên tục,
thƣờng xuyên; Philippe Meirieu khẳng định đánh giá phải phân biệt hoá….
Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập gắn liền với mục tiêu và nội
dung đào tạo. Vừa mang tính định lƣợng lại mang cả tính định tính. Do vậy,
hoạt động này là một công việc khó khăn phải đầu tƣ nhiều công sức mới có
kết quả mong muốn. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, bối cảnh kinh tế - xã
hội trong nƣớc và quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho giáo dục
Việt Nam và có những bƣớc phát triển quan trọng về quy mô, chất lƣợng
cũng nhƣ các điều kiện đảm bảo chất lƣợng. Đã có một số đề tài nghiên cứu,
hội thảo, tạp chí về vấn đề quản lý kiểm tra, đánh giá. Xong chƣa thật chuyên
sâu về vấn đề này. Nhìn chung các tác giả đã nghiên cứu về cơ sở lý luận và
đƣa ra những giải pháp nâng cao nhận thức trong việc quản lý kiểm tra, đánh
giá chỉ ra đƣợc vai trò, mục đích, ý nghĩa của hoạt động này ngày đƣợc nâng
cao và đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học
giáo dục và khoa học quản lý giáo dục về vấn đề kiểm tra, đánh giá cũng
đƣợc đề cập nhiều trong sách lý luận nhƣ: giáo dục học, phƣơng pháp dạy học
8


đặc biệt, đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và linh hoạt những tri thức, kinh nghiệm
đã đƣợc đúc kết để áp dụng vào việc tổ chức con ngƣời và công việc. Trên
nhiều lĩnh vực khác nhau và cách tiếp cận khác nhau ngƣời ta đƣa ra nhiều
định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo tác giả Bùi Văn Quân đã định nghĩa khái niệm: Quản lý là quá
trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các
nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù
hợp theo quy luật khách quan để gây ảnh hƣởng tới đối tƣợng quản lý nhằm
tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại, ổn định và phát
triển của tổ chức trong một môi trƣờng luôn biến động.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ trong “Những vấn đề cốt yếu của
quản lý” đã nêu: “Quản lý là một quá trình định hƣớng, quá trình có mục tiêu.
Quản lý là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt đƣợc
những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trƣng cho trạng thái mới
của hệ thống mà ngƣời quản lý mong muốn” [19]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể QL
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ƣu nhằm đạt mục đích của tổ
chức với hiệu quả cao nhất”
Theo Nguyễn Đức Minh đã đƣa ra định nghĩa về quản lý cho tất cả các
lĩnh vực: “Quản lý là quá trình tác động có mục đích của con ngƣời vào một
hệ thống nào đó làm thay đổi hiện trạng của hệ thống đó hoặc đƣa vào hệ
thống đó những thuộc tính mới”. [17]
Các định nghĩa trên tuy có khác nhau về cách diễn đạt nhƣng đều phản
ảnh mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tƣợng quản lý.

1.2.1.2. Quản lý giáo dục


11
- Đối với cấp vi mô: quản lý giáo dục đƣợc hiểu là hệ thống những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật)
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh,
cha mẹ học sinh và các lực lƣợng xã hội trong và ngoài nhà trƣờng nhằm thực
hiện có chất lƣợng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trƣờng.
Từ những khái niệm trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô ta cũng có thể thấy
rõ 4 yếu tố của quản lý giáo dục đó là: chủ thể quản lý, đối tƣợng bị quản lý,
khách thể quản lý và mục tiêu quản lý nhƣ sơ đồ sau:
Sơ đồ: 1.1. Quản lý giáo dục

Chủ thể
quản lý
Đối tƣợng
quản lý
Mục tiêu
quản lý
Khách thể
quản lý
12
Trong thực tiễn, các yếu tố trên không tách rời nhau mà ngƣợc lại,
chúng có quan hệ tƣơng tác gắn bó với nhau.
Do vậy có thể hiểu khái niệm quản lý giáo dục là hệ thống những tác

1.2.2. Các chức năng quản lý
Chức năng quản lý là phƣơng thức, nội dung và quy trình tác động của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong quá trình quản lý. Nhìn chung,
các nhà khoa học đã thống nhất quản lý có các chức năng cơ bản sau:
Kế hoạch là việc chủ thể quản lý căn cứ vào cơ hội và thức đối với tổ
chức, khó khăn và thuận lợi của tổ chức, dự kiến nhân lực, tài lực, vật lực,
thời gian và lộ trình hoạt động; đồng thời dự kiến và lựa chọn các phƣơng
pháp thực hiện để tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu.
Tổ chức là việc chủ thể quản lý căn cứ vào kế hoạch đã có mà thiết lập
cơ cấu bộ máy, bố trí nhân lực, ấn định chức năng và nhiệm vụ cho các bộ
phận và cá nhân, thiết lập quy chế và quy chế hoạt động, sắp xếp và phân bổ
nguồn lực vật chất cho các bộ phận và cá nhân để họ có đủ điều kiện thực
hiện các công việc đƣợc giao.
Chỉ đạo là việc chủ thể quản lý hƣớng dẫn thực hiện công việc, liên kết,
động viên, kích thích, giám sát và trực tiếp uốn nắn các hoạt động của các bộ
phận hoặc cá nhân đó thực hiện kế hoạch.
Kiểm tra đánh giá là việc chủ thể quản lý thu thập thông tin về kết quả
các bộ phận của từng hoạt động của từng bộ phận hoặc cá nhân để so sánh kết
quả đó với mục tiêu đã định trong kế hoạch, tìm nguyên nhân dẫn đến các
mức độ kết quả hoạt động; từ đó có các quyết định nhằm phát huy các mặt tốt,
điều chỉnh các sai lệch nhỏ và xử lý các sai phạm.
Như vậy, để thực hiện đƣợc các chức năng trên, thì chủ thể quản lý phải
thu thập kịp thời, đầy đủ và xử lý chính xác các thông tin phục vụ cho việc ra
các quyết định quản lý. Thông tin quản lý có vai trò nhƣ một dạng tài nguyên
mà ngƣời quản lý nhất thiết phải khai thác để thực hiện các chức năng quản
14
lý. Nhƣ vậy, thông tin quản lý có mối quan hệ mật thiết với các chức năng

Tổ
chức
Thông tin
quản lý

Chỉ đạo
15
pháp quản lý giáo dục phải phù hợp với mục đích quản lý giáo dục và có tính
khoa học nó đòi hỏi chủ thể quản lý phải nắm vững đối tƣợng quản lý với
những đặc điểm vốn có để có những tác động trên cơ sở vận dụng các quy
luật khách quan phù hợp với đối tƣợng đó.
Do đó ngƣời quản lý phải có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm gắn
kết các biện pháp với nhau và giải quyết các mâu thuẫn giữa các biện pháp
mâu thuẫn nội tại trong từng biện pháp, biết phần nào tiên đoán trƣớc tình
huống, hoàn cảnh sẽ gặp phải trong quản lý, để đƣa ra các quyết định quản lý
hữu hiệu và tối ƣu nhất. Chính lúc này đòi hỏi hơn lúc nào hết trình độ, bản
lĩnh và nghệ thuật của nhà quản lý.
1.2.4. Quản lý kiểm tra đánh giá
Kiểm tra trong quản lý giáo dục: là chức năng quan trọng của nhà quản
lý, chức năng này xuyên suốt quá trình quản lý kể cả đối với nhà quản lý ở cơ
sở giáo dục nhƣ trong một trƣờng học. Có thể hiểu kiểm tra là hoạt động quan
sát và kiểm nghiệm mức độ phù hợp của quá trình hoạt động của đối tƣợng bị
quản lý. Kiểm tra trong quản lý giáo dục là hệ thống các nội dung gồm: đánh
giá, phát hiện, điều chỉnh các sai lệch. Trong trƣờng học kiểm tra là giai đoạn
kết thúc của quá trình dạy và học, là một chức năng cơ bản, chủ yếu của quá
trình dạy và học gồm:
+ Đánh giá kết quả học tập của sinh viên là quá trình xác định trình độ

kiểm tra là thiết lập mối quan hệ ngƣợc trong quản lý, giúp chủ thể quản lý
nắm đƣợc bộ máy, đề ra đƣợc các biện pháp điều chỉnh, sửa chữa, chỉnh lý để
điều khiển một cách tối ƣu hoạt động của bộ máy.
- Đánh giá: Là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả của công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu đƣợc, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để
cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả công việc.
Theo tác giả Deketele của Trƣờng Đại học Tổng hợp Louvain La
Neuve (Bỉ - 1980) đã đƣa ra khái niệm chung về đánh giá: đánh giá là xem
Thành phần
Đánh giá
Kết quả
Điều chỉnh
Phát hiện
lệch lạc
17
xét mức độ phù hợp giữa một tập hợp thông tin có giá trị, thích hợp và đáng
tin cậy phù hợp với mục tiêu đề ra để so sánh, đánh giá nhằm đƣa ra một
quyết định.
Nhiều tác giả nhƣ Tylor, Croubach, Alkin, Stuffebean, Stake,
Scriven… đã đƣa ra định nghĩa về đánh giá trong hệ thống giáo dục nhƣ sau:
“Đánh giá, trong bối cảnh giáo dục, có thể định nghĩa nhƣ một quá trình đƣợc
tiến hành có hệ thống để xác định mức độ đạt đƣợc của học sinh về mục tiêu
của đào tạo. Nó có thể bao gồm những sự mô tả (liệt kê) về mặt định tính hay
định lƣợng những hành vi (hoạt động) của ngƣời học cùng với những nhận
xét, đánh giá những hành vi này đối chiếu với sự mong muốn đạt đƣợc về mặt
hành vi đó”

- Xác định thƣớc đo
- Tiến hành đánh giá
Tóm lại, Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là
một bộ phận hợp thành rất quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy -
học. Kết quả toàn bộ quá trình dạy - học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc
vào việc tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên một cách
đúng đắn. Công tác kiểm tra, đánh giá trong dạy - học là một việc làm phức
tạp, bởi lẽ kết quả cuối cùng (sản phảm cuối cùng - ngƣời học đƣợc đào tạo
trong nhà trƣờng) là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động tới đó là:
- Ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, đánh giá kết quả một hoạt động là nhằm phát hiện và uốn
nắm kịp thời những sai sót, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động đang tiến hành
theo phƣơng thức cơ bản đã đề ra, đồng thời xác định kết quả hoạt động trên
cơ sở đối chiếu với yêu cần hoàn thiện hoạt động một cách tích cực dành kết
quả tối ƣu. Đối với quá trình dạy học đó là một quá trình đào tạo và tự đào tạo
con ngƣời mới theo mục đích giáo dục. Quá trình dạy học cần phải đƣợc tiến
hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên, bởi vì cấu trúc của quá
19
trình dạy học đòi hỏi phải có sự vận hành của phần liên hệ ngƣợc, vì thiếu nó
không thể đảm bảo việc điều chỉnh và sửa đổi quá trình này, không thể dự
kiến và cụ thể hoá những nhiệm vụ cơ bản của kiểm tra, đánh giá.
- Mục đích của việc kiểm tra, đánh giá:
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một bộ phận
cấu thành và là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy - học. Kiểm tra, đánh
giá trong giảng dạy phải bắt đầu bằng một sự xác định những mục tiêu dạy -
học một cách rõ ràng. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là
ngƣời giáo viên phát hiện đƣợc sự phù hợp hay không phù hợp giữa tình trạng

+ Yêu cầu đảm bảo tính phát triển của kiểm tra, đánh giá: Trong quá
trình kiểm tra, đánh giá luôn luôn phải theo dõi xem xét kịp thời phát hiện và
đánh giá các động lực phát triển, sự tiến bộ của sinh viên dù là những động
lực phát triển, những nhân tố đó mới chớm nở cũng cần phải kịp thời ghi
nhận, nâng niu và tạo điều kiện để những nhân tố đó có cơ hội phát triển.
Nhƣ vậy ý nghĩa của việc quản lý kiểm tra, đánh giá: là một hoạt động
nhằm phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai sót, điều chỉnh có hiệu quả hoạt
động đang tiến hành theo phƣơng thức cơ bản đã đề ra, đồng thời xác định kết
quả hoạt động trên cơ sở đối chiếu với yêu cầu, mục đích đề ra cho hoạt động
những thời điểm nhất định, tạo điều kiện thúc đẩy, hoàn thiện hoạt động một
cách tích cực dành kết quả tối ƣu. Đó với quá trình dạy học đó là một quá
trình đào tạo và tự đào tạo con ngƣời mới theo mục đích giáo dục. Quá trình
dạy học cần phải đƣợc tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh
viên, bởi vì cấu trúc của quá trình dạy học đòi hỏi phải có sự vận hành của
thành phần liên hệ ngƣợc, vì thiếu nó không thể đảm bảo việc điều chỉnh và
sửa đổi quá trình này, không thể dự kiến và cụ thể hoá những nhiệm vụ cơ
bản của kiểm tra, đánh giá.
21
Sơ đồ 1.3: Kiểm tra, đánh giá
+ Đánh giá kiến thức; đánh giá theo các cấp độ: biết - hiểu - vận dụng -
phân tích - tổng hợp - đánh giá, khả năng diễn đạt, ứng xử….
+ Đánh giá kỹ năng: đánh giá kỹ năng thực hiện có kết quả hoạt động
trên cơ sở tri thức có đƣợc; đánh giá các kỹ năng: đọc, viết, lao động, tƣ
duy…Đặc biệt đánh giá các kỹ năng cụ thể sau: biết vận dụng kiến thức, kỹ
năng nhận biết, biết học tập theo nề nếp, có phƣơng pháp, biết tự kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của mình.
+ Đánh giá thái độ: đánh giá theo cấp độ của thái độ: tiếp thu - hƣởng
ứng - đánh giá - tổ chức lại hệ thống giá trị mới - hành động theo giá trị mới.
Đặc biệt đánh giá các thái độ: ham hiểu biết, tự giác học tập, thu vào những
điều đã học, không tin vào những điều trái khoa học, không đồng tình với
những hành động vi phạm kỷ luật học tập, không thật thà trong học tập.
- Phẩm chất đạo đức: tập trung vào đánh giá đạo đức (tri thức đạo đức
và niềm tin đạo đức) và hành vi đạo đức đƣợc thông qua (tính chính xác, tính
phổ biến, tính ổn định, động cơ của hành vi).
Vậy việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một bộ
phận hợp thành rất quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy - học. Kết
quả toàn bộ quá trình dạy - học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc vào việc
tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên một cách đúng đắn.
Công tác kiểm tra, đánh giá trong dạy - học là một việc làm phức tạp, bởi lẽ
kết quả cuối cùng (sản phẩm cuối cùng - ngƣời học đƣợc đào tạo trong nhà
trƣờng) là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động tới.
1.3. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học đƣợc áp
dụng theo quy chế 43 của bộ giáo dục và đào tạo. Quy chế này quy định đào
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, bao gồm: tổ chức
23

24
B, C, D, F. Mức điểm chữ của mỗi học phần lại đƣợc quy đổi theo thang điểm
4 khi tính điểm trung bình học kỳ và điểm trung bình chung tích luỹ. Cách
quy đổi điểm đƣợc thực hiện theo bảng dƣới đây:
Điểm theo
thang tiện ích
Điểm quy đổi
Phân loại
Xếp hạng
Điểm chữ
Điểm số
8,5 ÷ 10
A
4,0
Đạt
Giỏi
7,0 ÷ 8,4
B
3,0
Đạt
Khá
5,5 ÷ 6,9
C
2,0
Đạt
Trung bình
4,0 ÷ 5,4
D
1,0
Đạt

+ Thủ tục xin điểm I: Sinh viên phải làm đơn kèm theo chứng lý hợp lệ
trình bày với giảng viên phụ trách học phần. Căn cứ vào ý kiến của giảng
viên, trƣởng khoa xét duyệt cho phòng Đào tạo.
+ Sinh viên nhận điểm I ở học phần nào, nếu có thể, phải dự thi để xoá
điểm I ngay trong kỳ thi kết thúc học phần của kỳ đó, kết quả thi xoá điểm I
vẫn đƣợc đính để đánh giá kết quả học tập học kỳ nhƣ bình thƣờng.
+ Trƣờng hợp sinh viên không thể dự thi để xoá điểm I ngay trong kỳ
thi kết thúc học phần của học kỳ bị nợ điểm sẽ đƣợc đánh giá kết quả học tập
sau học kỳ chỉ dựa trên kết quả của các học phần đã đủ điểm. Nếu sinh viên
không rơi vào diện bị buộc thôi học sẽ đƣợc học tiếp ở học kỳ tiếp theo và
phải đăng ký thi để xoá điểm I trong kỳ thi kết thúc học kỳ này. Trƣờng hợp
này, kết quả thi xoá điểm I chỉ đƣợc sử dụng để tính điểm trung bình chung
tích luỹ, không tính vào điểm trung bình chung học kỳ của học kỳ thi trả nợ
và không cập nhật để tính lại điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung
bình chung tích luỹ của học kỳ trƣớc.
Thời hạn tối đa đƣợc phép dự thi xoá điểm I là một học kỳ sau học kỳ
bị nợ điểm, quá thời hạn này nếu sinh viên vẫn chƣa dự thi để xoá điểm I thì
sẽ bị nhận điểm F.
+ Điểm X: Dành cho các học phần mà giảng viên chƣa kịp báo cáo
điểm về phòng Đào tạo vì lý do khách quan. Giảng viên phải báo cáo điểm
trong thời gian sớm nhất có thể.
- Tổ chức thi, số lần thi, vắng thi
+ Cuối mỗi học kỳ, trƣờng tổ chức một kỳ thi chính và một kỳ thi phụ
để thi kết thúc học phần. Kỳ thi phụ dành cho những sinh viên không tham dự


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status