Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc - Pdf 14

LI CM N
Em xin c gi li cm n chõn thnh nht ti ton th cỏc thy cụ
trong khoa du lch hc trng i hc Khoa hc Xó hi v Nhõn Vn. Đặc
biệt, em xin c gi li cm n sâu sắc nhất tới Thc s Nguyn Quý
Phng - Thầy ó rất tn tỡnh ch bo v giỳp , hớng dẫn và cung cấp cho
em những phơng pháp làm việc có hiệu quả nhất trong sut qỳa trỡnh chuẩn
bị, thực hiện và hoàn thành khoỏ lun tt nghip này.
Đồng thời em xin cm n ti gia đình đã luôn luôn bên cạnh động viên
giúp đỡ em trong suốt khoảng thời gian qua.
Cui cựng tôi xin chõn thnh cm n toàn thể các bn ó luụn nhiệt
tình tham gia giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và cùng tôi trao đổi ý kiến
để đề tài đợc hoàn thiện.
Sinh viờn: Trõn trng cm n!
TI: Vai trũ ca du lch trong vic bo tn v phỏt huy giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc.
Phn m u
1. Lý do chn ti:
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, du lch ó tr thnh mt nhu cu
tt yu ca xó hi, khụng nhng l ngnh kinh t mi nhn ca cỏc quc gia
m cũn l cu ni giao lu gia cỏc dõn tc, quc gia v cỏc min trong mt
t nc. Bn bố quc t trc õy bit n Vit Nam l mt quc gia phi
tri qua nhiu thp k chin tranh vi cỏc th lc xõm lc mnh hn gp
nhiu ln v h ó anh hựng ỏnh bi cỏc th lc xõm lc ú, bo v ton
vẹn lãnh thổ non sông của đất nước. Bởi vậy, ngày nay, khi kh¸ch du lịch
đến Việt Nam hä thêng ngạc nhiên và tự hỏi không hiểu vì sao những con
người mãnh liệt, dũng cảm, lập nhiều kỳ tích trong chiến tranh như vậy lại
cuốn hút kh¸ch tham quan bởi sự hiền hậu, chân tình và th©n thiÖn chứ
không phải bằng những ánh hào quang của chiến thắng. Có lẽ một phần câu
trả lời đang ẩn mình trong tính cách và truyền thống của người Việt, bởi trải
qua hµng ngàn năm lịch sử, người Việt đã tạo dựng cho mình một phong
cách, một nền văn hoá, thuần phong, mỹ tục riêng. Đồng thời du lịch còn

văn hoá truyền thống là định hướng quan trọng trong việc khôi phục lại
nguồn vốn quý của dân tộc. Nhiều công trình văn hoá nghệ thuật trên các
lĩnh vực văn hoá phi vật thể và vật thể được kiểm kê, trùng tu, tôn tạo
chống xuống cấp, sưu tầm bảo quản nghiên cứu giới thiệu, giao lưu để bảo
tồn trong cuộc sống và cho khách tham quan. Trong đó du lịch đóng vai trò
to lớn và đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc. Bởi vậy nghiên cứu về du lịch sẽ góp phần quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức và phương hướng phát triển ngành du lịch
Việt Nam. Tuy nhiên do điều kiện có hạn về không gian, thời gian và tư liệu
nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu “Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”. Đề tài sẽ cố gắng đi sâu phân tích vai trò
của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của một
số tài nguyên du lịch chọn mẫu, so sánh nhận thức thực tế, hoạt động của các
chương trình du lịch trong những năm 2004 – 2008 để phát huy vai trò mà
du lịch đã tiếp cận, những tiềm năng mà du lịch còn chưa được khai thác để
đáp ứng nhu cầu của khách nội địa và quốc tê.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài “ Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc” hướng tới giải quyết mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá, trong
đó những nhân tố truyền thống dân tộc cần được phát huy như một nền tảng
vững chắc giúp cho ngành du lịch đi đúng hướng và tiến tới phát triển du
lịch một cách bền vững. Đồng thời thong qua phân tích, so sánh em hy vọng
sẽ góp phần củng cố thong tin bổ ích về vai trò của du lịch với việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho những người tham gia hoạt động du
lịch để họ có thể phát huy tác dụng của nó như một cách tối đa và có hiệu
quả nhất.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên tập trung vào nghiên cứu ngành du lịch Việt Nam để làm rõ
vai trò của nó đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

kiện cụ thể của nước ta.
1.1. Khái niệm du lịch:
Mặc dù du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế, xã hội phổ biến trên thế
giới và là thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội. Nhưng cho đến nay
nhận thức về nội dùng du lịch vẫn chưa được thống nhất. Trước thực tế phát
triển của ngành du lịch về mặt kinh tế cũng như trong lĩnh vực đào tạo,
nghiên cứu thảo luận, để đi đến thống nhất một số khái niệm trong đó có
khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Theo ông Nguyễn Khắc Viện thì du lịch là sự mở rộng không gian
văn hoá của con người.
Trong từ điển tiếng Việt du lịch lại được giải thích là đi chơi cho biết
xứ người.
Với Ghisman: du lịch là sự khắc phục về mặt không gian của con
người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi thường xuyên
của họ.
Guer Freuler: du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện
tượng của thời đại chúng ta dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục
sức khỏe và sự thay đổi về môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh,
phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên chia sẻ quan niệm này với
Guer Freuler, PTS Trần Nam đưa ra quan điểm của mình: du lịch là quá
trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục
đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc,
độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được tính
bằng đồng tiền.
Aza nhận thấy du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm
thời tự một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang nước khác
nếu không gắn với sự thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc.
Quan điểm của Kaspar: du lịch là toàn bộ những quan hệ về hiện
tượng xảy ra trong quá trìn di chuyển và lưu trú của con người tại nơi không
phải là nơi ở thường xuyên hoặc nơi làm việc của họ.

của bốn nhóm du khách, cơ quan cung ứng du lịch, chính quyền và dân cư
tại nơi đến du lịch tạo nên.
Còn Robert W.Mcintosh, Charles R.Goelder, J.R Brent Ritchie phát
biểu về du lịch như là tổng các hiện tượng và mối quan hệ nảy sinh từ tác
động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ
nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp du khách.
Với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc vệ du lịch họp
tại Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch “Du lịch là tổng
hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ lưu trú
không phải nơi làm việc của họ”.
Khác với quan điểm trên các học giả biên soạn bách khoa toàn thư
Việt Nam đã tách hai nội dùng cơ bản của du lịch thành hai phần:
+ Nghĩa thứ nhất: du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật…
+ Nghĩa thứ hai: du lịch được coi là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả
cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và
văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng tình yêu đất nước, đối với người
nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh
vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Luật Du lịch Việt Nam chỉ rõ: “Du Lịch là họat động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”. Theo định nghĩa này ta thấy, du lịch trước tiên
phải là hoạt động của con người và phải là hoạt động ngoài nơi cư trú
thường xuyên của họ. Tuy vậy ở đây còn nêu lên một vấn đề rất chung
chung là “nơi cư trú” bởi từ này có thể hiểu với một không gian rất rộng như

trị kinh tế, văn hoá, và dịch vụ do các cơ sở cung ứng.
- Thứ hai: Du lịch có thể được hiểu là một lĩnh vực kinh doanh các dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu
trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể
ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức
tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc nhận định rõ ràng hai nội dùng cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp
phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Từ những khái niệm trên giúp ta
hiểu rõ về ngành du lịch từ đó có những nhìn nhận đúng đắn về ngành
này cũng như vai trò của nó đối với đất nước, đặc biệt là vai trò bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
1.2. Một số khái niệm liên quan:
- Cũng theo Luật Du Lịch thì “tham quan là hoạt động của khách du lịch
trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng
thức những giá trị tài nguyên du lịch”. Qua đây cho ta thấy, tham quan là
hình thức quan sát trực tiếp những di tích, danh lam, phong tục, cuộc sống
sinh hoạt của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch, từ đó cảm nhận, hình
thành những kiến thức hoặc bổ sung thêm kiến thức cho bản thân mình.
Tham quan không chỉ thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thông qua tiếp xúc trực
tiếp các giác quan mà nó còn thông qua việc tiếp xúc ấy để thưởng ngoạn
các giá trị của nơi đến tham quan. Tham quan không những giúp cho ta cảm
nhận trực tiếp các đối tượng tham quan và giúp ta kiểm nghiệm, bổ sung trí
tưởng tượng phong phú của con người về các đối tượng mà ta có được thông
qua các hình thức khác như văn học, hội hoạ, truyền thong… Việc hình
thành kiến thức, bổ sung kiến thức thông qua tham quan mang tính khác biệt
với các hình thức khác, bởi kiến thức được hình thành bổ sung một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, không bắt buộc. Từ những quan sá kinh tế, trực tiếp, kiến
thức dần dần đọng lại trong khách du lịch một cách tự nguyện, bản năng, bởi
vậy những kiến thức đọng lại thuộc về nhu cầu và tương đối bền vững với
người tiếp nhận nó.

trong bản thân nó và ý nghĩa thời gian nó đã trải qua. Không những chỉ chứa
đựng những thông tin lịch sử văn hoá mà các di tích còn ẩn chứa trong mình,
những giá trị nhân văn, những giá trị ứng xử của con người Việt Nam.
Thông qua các biểu tượng hoặc các truyền thuyết gắn liền với di tích đó, mà
ta thấy được nét truyền thống văn hiến của dân tộc mình. Khuê Văn Các
không phải nghiễm nhiên được xây dựng ở trung tâm Văn Miếu bởi nó ẩn
chứa trong mình những ý chí vươn lên toả sáng - những ánh sang tuyệt đẹp
của con người Việt Nam như ánh sáng của chùm sao Khuê.
- Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi
trường (Luật Du Lịch). Vậy khu du lịch phải là nơi có tài nguyên du lịch hấp
dẫn và đồng thời phải có ưu thế nổi bật về tài nguyên du lịch tự nhiên.
Không những thế, nó phải được quy hoạch, đầu tư phát triển, nhằm thoả mãn
nhu cầu đa dạng của khách du lịch nhưng phải mang lại hiệu quả kinh tế, xã
hội và môi trường. Qua đây chúng ta thấy nếu một khu nào đó có đầy đủ
điều kiện, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhưng không mang lại hiệu quả
xã hội và môi trường thì nó vẫn chưa được coi là khu du lịch.
- Điểm du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham
quan của khách du lịch, (Luật Du Lịch). Khái niệm này giúp ta phân biệt
điểm du lịch với các điểm khác như: điểm vui chơi, giải trí, điểm thi đấu thể
thao… Đồng thời nó cũng giúp ta nhận biết đâu là tài nguyên du lịch đâu là
điểm du lịch, tài nguyên du lịch là khái niệm chung trong đó bao gồm cả
điểm du lịch, nhưng điểm du lịch là những tài nguyên du lịch đã được đưa
vào khai thác và phát huy ý nghĩa của nó.
- Tuyến du lịch: là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung
cấp các dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường hàng không. (Luật Du Lịch). Khái niệm này cho ta thấy
hai yếu tố cấu thành nên tuyến du lịch là các điểm, khu du lịch và tuyến giao
thông. Nếu có điểm du lịch nhưng hạ tầng giao thông chưa phát triển thì

Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế
xã hội và đã trở lên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp
sống sinh hoạt trong xã hội ngày nay. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ
yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch như một
ngành kinh doanh mũi nhọn có sức hút đối với những ngành khác. Ngành
du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 với việc thành lập Công Ty Du Lịch
Việt Nam theo nghị định số 26 CP ngày 9/7/1960 đã đánh dấu nhận thức
của Đảng và Nhà Nước về triển vọng nền kinh tế này.
Trong suốt gần 50 năm hình thành và phát triển ngành du lịch luôn
được Đảng và nhà nước quan tâm. Ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du
lịch trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Đặc biệt thời kỳ đổi mới và hội nhập, du lịch Việt Nam đã
có những phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát
triển du lịch với các nước trong khu vực. Trở thành ngành kinh tế quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà Nước với du lịch là một tiền để rất quan trọng cho những
đổi mới của ngành. Sự quan tâm này được thể hiện trong hiến pháp của nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong nghị quyết đại hội
Đảng toàn quốc, trong chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí Thư
Trung Ương, thông báo số 179 TB/TW ngày 11/11/1998 và dự thảo văn
kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế
5 năm 2006-2010) và hàng loạt các văn bản khác. Như vậy có thể tin tưởng
rằng trong tương lai du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng
trong xã hội và nền kinh tế nước nhà.
Lượng khách quốc tế vào nước ta từ năm 1990-2007:
Lượng khách nội địa giai đoạn 1990 – 2007:

*
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Qua hai bản biểu đồ trên có thể thấy hoạt động du lịch của nước ta giai đoạn 1990-

khu bảo tồn hoặc các khu phụ cận, nhưng lại được đắm mình trong
khung cảnh thiên nhiên và không khí trong lành, qua đó đem lại cho
người ta một ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường, cải tạo và
trả lại cho môi trường vẻ đẹp vốn có của nó.
- Du lịch mạo hiểm: Là loại hình du lịch mà hoạt động của du khách
mang ít nhiều tính mạo hiểm, khám phá. Từ mạo hiểm cho ta thấy là
trong quá trình du lịch khách dễ gặp phải những rủi ro, nguy hiểm khó
lường trước được và đôi khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Loại hình
du lịch này chỉ phù hợp với những người có sức khỏe tốt và có cá tình
mạnh, thích phiêu lưu mạo hiểm. Các dạng phổ biến của loại hình này
là leo núi, chinh phục các ngọn núi cao, vượt sông, thác ghềnh ở
những nơi nguy hiểm tạo cho họ cảm giác mạnh và mang ý nghĩa
chinh phục, lặn biển để khám phá vẻ đẹp dưới đáy biển, khám phá các
hang động để tìm ra những điều bí ẩn. Du lịch mạo hiểm giúp cho con
người rèn luyện ý chí, khả năng xử lý tình huống khi gặp những khó
khăn bất ngờ.
- Du lịch nghỉ dưỡng: một trong những chức năng xã hội quan trọng
của du lịch là phục hồi sức khoẻ cộng đồng. Theo một số học giả trên
thế giới với chế độ du lịch hợp lý cộng đồng có thể giảm được trung
bình 30% ngày điều trị bệnh trong năm. Thông thường loại hình du
lịch này diễn ra ở những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho
việc nghỉ dưỡng như khí hậu, môi trường, bãi biển và có cơ sở vật
chất đủ đáp ứng cho nhu cầu nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Tham quan khu
vực lân cận với chương trình nhẹ nhàng, mang tính thư giãn và nghỉ
dưỡng là một phần của loại hình này. Thời gian chủ yếu của khách là
nghỉ ngơi kết hợp các vận động nhằm giúp ích cho sức khoẻ hoặc thư
giãn đầu óc, hưởng thụ các dịch vụ tại nơi nghỉ dưỡng. Ở Việt Nam,
các khu nghỉ dưỡng này mới chủ yếu hình thành dọc bờ biển miền
Trung như: Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu…
- Du lịch tàu biển: là loại hình du lịch trên các con tàu biển với thiết bị

2.1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn và không thống nhất theo cách nghĩ
của mỗi người. Dưới góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau mỗi
học giả đều tự đưa ra cho mình những quan niệm khác nhau về văn hoá.
Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của
xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn
ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn hoá. Xem dáng vẻ con
người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (quan hồ nhân văn dĩ hoá thành hiện đại).
Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 776 trước
Công Nguyên). Tuy vậy việc xây dựng và sử dụng khái niệm văn hoá không
đơn giản và thay đổi theo thời gian, thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác
tinh thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là
quản lý, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học
phát triển sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
hoá thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hoá của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng văn hoá hướng về trí lực và sự
vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Taylo là đại diện của họ.
Theo ông văn hoá là toàn bộ thực tế gồm: hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con
người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Thế kỷ XX, khái niệm văn hoá thay đổi F.Boa ý nghĩa văn hoá được
quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu như “trí lực” vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng
không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận” của văn hoá.
Văn hoá không xét ở mức độ tăng giảm mà ở góc độ khác biệt. Trong ý
nghĩa rộng nhất: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ

- Xã hội hậu công nghiệp (thời đại tin học)
Ở Việt Nam xã hội cổ truyền là xã hội nông nghiệp, văn minh cổ truyền
là văn minh thôn dã (xóm làng), văn hoá Việt Nam truyền thống thường
được xem là nền văn hoá xuất hiện từ lúc hình thành quốc gia dân tộc, qua
nhiều bước phát triển nội sinh và ảnh hưởng ngoại sinh cho đến khi văn hoá
phát triển (chủ yếu là văn hoá Pháp) tác động đến một số lĩnh vực. Như vậy
khoảng thời gian kéo dài từ xa xôi cho đến những năm đầu thế kỷ XX tạm
được coi là giới hạn của văn hoá truyền thống. Từ thời điểm đó đến nay,
được coi là văn hoá hiện đại. Đôi khi người ta cũng có sự lẫn lộn giữa khái
niệm cổ truyền và truyền thống. Có thể coi khái niệm cổ truyền bao gồm cả
cái không tích cực. Khái niệm truyền thống là tập quán đã được sàng lọc.
Truyền thống được dùng ở đây là tính cho đến thời điểm trước công cuộc
giao thoa truyền thống văn hoá Đông – Tây, Việt – Pháp.
Định nghĩa văn hoá truyền thống: trong bài viết văn hoá cổ truyền, văn
hoá truyền thống và truyền thống văn hoá của một tác giả tên đăng trên tạp
chí văn hoá dân gian có nêu: “văn hoá truyền thống là khái niệm dùng để chỉ
một cấu trúc văn hoá, chỉ văn hoá của các xã hội nông nghiệp truyền thống”.
Tuy đây là định nghĩa ngắn gọn nhưng còn gây cho người đọc sự khó hiểu,
diễn đạt còn chưa thoát ý.
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm có đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”. Từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do
Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Truyền thống là thói quen hình thành đã
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác”.
2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá
Để có thể đánh giá được đầy đủ và chính xác vai trò của ngành du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, ta cần phải
nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá thể hiện như

nâng cao nền văn hoá của mình. Đây là đặc trưng trong tính kế thừa theo
trục không gian của các nền văn hoá. Nếu không có giao lưu, nền văn hoá
vủa mỗi cộng đồng, dân tộc khi bị cô lập sẽ ở trạng thái ngưng trệ. Sự kế
thừa theo trục không gian đã thúc đẩy văn hoá nhân loại phát triển.
Khi nghiên cứu du lịch ta không chỉ xem xét trên góc cạnh của người
hướng dẫn mà trên thực tế những người cung cấp dịch vụ là yếu tố thứ hai
trong du lịch tạo nên một hiện tượng Kinh Tế - Văn Hoá. Họ là những người
cung cấp thông tin, tổ chức các chuyến du lịch, người cung cấp phương tiện
giao thông, cung cấp cơ sở lưu trú, ăn uống để thoả mãn như cấu cơ bản của
con người. Ngoài ra những người làm công tác nghệ thuật, tổ chức vui chơi
giải trí, cung cấp thiết bị kỹ thuật … Với tư cách là “nhà sản xuất hàng hoá
dịch vụ, hoạt động của người làm du lịch không thể tách rời các yếu tố văn
hoá” .
Trong doanh nghiệp hoạt động du lịch, yếu tố văn hoá là toàn bộ giá trị
vật chất và tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra. Sử dụng trong quá trình phục
vụ khách, vì vậy có thể nói rằng văn hoá chính là toàn bộ quá trình xây dựng
bố trí cơ sở vật chất: thiết bị vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ
phụ trợ khác …
Một điểm cần lưu ý là sản phẩm của nghành du lịch mang tính chất đặc
thù. Nghĩa là nó không thể đóng gói, tồn kho, bày bán như các sản phẩm
thông thường. Yếu tố dịch vụ mang tỷ trọng lớn trong sản phẩm. Như vậy
một sản phẩm du lịch không chỉ có mặt vật chất mà nó chứa đựng yếu tố văn
hoá, tinh thần. Kết tinh vào sản phẩm có sức lao động của con người thông
qua giao tiếp, phục vụ, chăm sóc khách hàng. Nhân viên phục vụ với tính
chất là sản phẩm của một nền văn hoá vì họ mang trong mình khả năng
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, và các yếu tố truyền
thống trong nhân cách. Họ đại diện cho doanh nghiệp và cả một nền văn hoá
để cảm hoá khách hàng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status